TIN CỘNG ĐỒNG

User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

TIN CỘNG ĐỒNG

Post by uncle_vinh »

Mời các anh chị, đặc biệt đang ở California, cùng vận động Thống Đốc Arnold Schwarzenegger phủ quyết (veto) Dự Luật SB1322 đã được thông qua bởi Lưởng Viện Quốc Hội của Tiểu Bang California.

"...
Tôi mong rằng cộng đồng Việt Nam tại khắp nơi, không chỉ riêng gì tại California, hãy tiếp tục vận động chống lại việc thông qua Dự Luật SB 1322. Quý đồng hương có thể liên lạc trực tiếp với Văn Phòng Thống Đốc Tiểu Bang California để lên tiếng phản đối và yêu cầu phủ quyết dự luật này. Số điện thoại của Văn Phòng Thống Đốc Arnold Schwarzenegger là (916) 445-2841 và số fax là (916) 558-3160. Muốn biết thêm các mẫu thư phản đối hay chi tiết cần thiết khác xin vào thăm trang nhà trên lưới điện toán ở địa chỉ http://www.vnhumanrights.com"

LS NGUYỄN QUANG TRUNG
Last edited by uncle_vinh on 02 Aug 10, Mon, 4:06 pm, edited 1 time in total.
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Tin Cộng Đồng

Post by uncle_vinh »

Cuộc đấu tranh Thái Hà: Giải quyết bằng đối thoại được chăng?

Nguyễn Chính Kết


Tình trạng đấu tranh đòi công lý tại Thái Hà hiện nay hết sức phức tạp và không thể giải quyết nếu không tạo được áp lực mạnh trên nhà nước và đảng CSVN, hoặc nếu đảng CSVN không từ bỏ lòng tham cố hữu của họ. Đối với CSVN, việc từ bỏ lòng tham là điều rất khó xảy ra, vì thế chỉ có áp lực mạnh mới giải quyết được. Muốn có áp lực mạnh thì chỉ có một cách duy nhất là phải tranh đấu, và kiên trì tranh đấu mà thôi!

Giáo dân Thái Hà và Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội đã bị nhà cầm quyền CSVN lạm dụng quyền hành, cướp đoạt đất đai của mình một cách bất công suốt mấy thập niên qua. Vì thế, việc đòi nhà cầm quyền CSVN phải trả lại phần đất họ đã cướp đoạt là một chuyện hết sức chính đáng. Giáo dân Thái Hà và Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội đã từng đòi lại công lý cho mình bằng đủ mọi cách: cách mềm mỏng nhất là làm đơn khiếu nại, yêu cầu đối thoại, mạnh hơn một chút là kiện cáo, đưa ra công luận. Tất cả những việc đó dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội và giáo dân Thái Hà đã làm nhưng đều vô hiệu. Do đó, họ phải dùng một phương thức tranh đấu mạnh hơn nhưng vẫn ôn hòa trong khuôn khổ tôn trọng hiến pháp, đó là biểu tình cầu nguyện, một hình thức đấu tranh bất bạo động rất mới mẻ của thời đại. Dẫu vậy, nhà cầm quyền CSVN vẫn ngoan cố, không những không chịu trả lại đất họ đã cướp đoạt mà còn dùng độc quyền truyền thông để vu cáo giáo dân Thái Hà cách trắng trợn trên truyền hình, truyền thanh, báo chí, kết án họ gây rối trật tự (1*), xâm phạm tài sản công dân, thậm chí còn dùng lựu đạn cay, đánh đập dã man đến đổ máu những người dân đang đòi hỏi công lý và tự do tôn giáo cách ôn hòa.

Trong cuộc tranh đấu đòi lại công lý và tự do tôn giáo này, người ta thấy sự tham gia rất tích cực của giáo dân Thái Hà và giáo dân ở nhiều nơi khác, đặc biệt của các linh mục dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội, và sự ủng hộ nhiệt tình của đồng bào Việt Nam hải ngoại. Tuy nhiên, giáo quyền Việt Nam nói chung − nói chính xác hơn là: đa số các giám mục − “có vẻ như” đứng ngoài cuộc, tỏ thái độ thụ động, lãnh đạm, không liên đới (2*). Một vài chức sắc cao cấp của Giáo Hội Việt Nam cũng có tỏ ra quan tâm chút ít bằng những câu nói có tính “huề cả làng”, “vô thưởng vô phạt”, tránh né đụng chạm những kẻ gây bất công. Các vị này tuyên bố: nhà nước và giáo dân Thái Hà cần phải đối thoại trong sự tôn trọng lẫn nhau, phải lắng nghe nhau… Nói như thế thì dễ làm cho người ngoài cuộc hiểu rằng trong quá khứ, cả phía Thái Hà lẫn phía CSVN đều có lỗi như nhau là chưa thực hiện đối thoại hoặc chưa đối thoại đúng đắn với nhau. Những vị lãnh đạo cao cấp này dường như quên rằng các linh mục và giáo dân Thái Hà trước đây đã từng sẵn sàng đối thoại với nhà cầm quyền CSVN một cách chân thành, đúng đắn về vấn đề này nhưng chẳng đi đến kết quả nào. Sở dĩ đối thoại chưa đi đến kết quả tốt đẹp nào là do sự thiếu thiện chí giải quyết của nhà cầm quyền CSVN vốn không muốn đối thoại. Nói đúng hơn là nhà cầm quyền CSVN vẫn nhất quyết không từ bỏ chủ trương ăn cướp cố hữu của họ; nếu đối thoại đúng đắn thì chắc chắn họ sẽ bị thua lý vì kẻ cướp làm sao chứng minh hành vi ăn cướp của mình là có lý được? Những việc họ đang làm chứng minh điều ấy. Các vị lãnh đạo tinh thần này dường như lúc nào cũng sợ đụng chạm đến tự ái hay ngại xúc phạm đến bạo quyền, trong khi bạo quyền chẳng những xúc phạm tự ái, chà đạp danh dự mà còn sẵn sàng “đập”, “đánh đổ máu” giáo dân của các vị. Tinh thần “xử huề” như thế giữa kẻ gây bất công và nạn nhân bất công thì đâu phải là công lý! Nếu chính các vị cũng thiếu tinh thần công lý, cũng sợ hãi không dám lên tiếng cho công lý thì làm sao xã hội có công lý như các vị vẫn thường rao giảng được? Về sự can đảm dấn thân trong cuộc đấu tranh này, có lẽ giáo dân Thái Hà đáng là gương mẫu cho những vị ấy, thay vì chính các vị lẽ ra phải làm gương cho họ trong việc bảo vệ công lý và quyền lợi Giáo Hội!

Một số bài báo trên mạng Internet phân tích rằng nhà cầm quyền CSVN đang nằm trong thế kẹt nên khó mà giải quyết được vụ này. Vì một khi giải quyết cho giáo xứ Thái Hà thì nhà nước cũng phải giải quyết cho các giáo xứ khác, cho các tôn giáo khác, và cho cả đám dân oan vô số trong cả nước nữa. Nếu thế nhà nước lấy đâu ra đất để trả lại, vì nhà nước đã lỡ cướp đất của dân rồi bán đi bán lại nhiều lần với giấy tờ hẳn hoi… Những miếng đất nhà nước ăn cướp được của dân giờ đã có sở hữu chủ được “hợp pháp hóa trên giấy tờ” rồi, nhà nước làm sao lấy lại được để trả cho người dân bị cướp? Của cải, ruộng đất nếu là của người dân thì còn lạm quyền ăn cướp được, chứ một khi đã lọt vào tay những thành viên cao cấp trong đảng cướp ấy hay vào tay người thân của những thành viên này rồi, thì nhà nước CSVN − vốn là công cụ của đảng cướp ấy − làm sao cướp lại được? Nhiều người nghĩ rằng nhà nước CSVN lâm vào thế kẹt nên “tiến thoái lưỡng nan”: trả lại đất thì không thể được vì lấy đâu ra đất mà trả, mà dẫu có trả được thì cũng “tiếc của”, không dại gì mà trả! Còn giải tán dân thì lấy lý do gì để giải tán vì việc họ đòi trả lại đất là hoàn toàn hợp lý và hợp pháp, nhất là khi họ có giấy tờ, có bằng chứng hẳn hoi chứng minh quyền sở hữu của họ! Trong thế bị kẹt ấy thì nhà nước đành phải xử bất công với một bên, và cách dễ nhất để ra khỏi thế kẹt này là đàn áp người dân theo tinh thần cố hữu của đảng là “cả vú lấp miệng em”, “lấy thịt đè người”, “lý kẻ mạnh bao giờ cũng thắng”, “lý kẻ mạnh xuất phát từ nòng súng”… (Lý luận trên là của một số bài báo, không phải của tác giả).

Lý luận như thế thì… xem ra vẫn còn tin tưởng vào thiện chí còn sót lại, nếu có, của nhà cầm quyền CSVN. Làm như họ vẫn muốn trả lại đất đai cho dân, nhưng vì họ đang lâm vào thế kẹt nên không trả lại được. Nhưng điều trớ trêu phản ngược lại sự tin tưởng ấy là nhà cầm quyền CSVN hiện nay vẫn đang tiếp tục cướp bóc đất đai, tài sản của dân chúng, vẫn đàn áp dân oan trắng trợn và phi pháp, vẫn tiếp tục “buôn người” (human trafficking) để làm giàu… Điều này hùng hồn nói lên rằng nhà cầm quyền CSVN chẳng hề có chút thiện chí nào muốn trả lại đất đai cho người dân cả, họ chỉ muốn ăn cướp thêm mà thôi. Tin tức trên mạng toàn cầu cho thấy CSVN vẫn tiếp tục cướp đất của dân bằng cách kế hoạch hóa những khu đất của dân và chỉ bồi thường cho dân bằng 1/10 giá thị trường! Cướp xong, nhà nước không cần biết sau đó người dân bị cướp sẽ sống ở đâu, sống bằng gì… Lòng tham không đáy của họ không chấp nhận trả lại đất cho người dân đâu!

Do đó, tất cả những ai hy vọng rằng cứ đối thoại bằng tất cả thiện chí và đúng đắn thì sẽ cảm hóa và thuyết phục được nhà nước CSVN thực thi công lý. Hy vọng đó chỉ là hão huyền, ảo tưởng, và ảo tưởng ấy quả là ngây ngô! (3*) Đó chính là một thứ thuốc phiện ru ngủ tinh thần đấu tranh của người dân đang bị áp bức hiện nay. Đối với cộng sản, chỉ có áp lực mới có thể buộc họ thay đổi và thực thi công lý mà thôi!

Rất mong các vị lãnh đạo tinh thần hãy can đảm tham gia tích cực vào công cuộc đấu tranh đòi tự do tôn giáo, đòi công lý, buộc nhà nước phải thực thi công bằng xã hội đang xảy ra tại Hà Nội và khắp các tỉnh trong nước. Không nên lãnh đạm với đại cuộc hoặc hoàn toàn đứng ngoài cuộc như thể mình không có trách nhiệm gì trước tình trạng thịnh suy hay hưng vong của đất nước như thái độ của một số vị trong mấy thập niên qua. Đấu tranh là chính là tạo áp lực buộc phải thay đổi, phải cải thiện chứ không phải là xin xỏ kẻ ác đối thoại với mình. Nếu mình đã dùng phương pháp đối thoại suốt 30 năm qua mà vẫn không thấy có kết quả gì thì không nên dùng phương pháp ấy nữa. Sự khôn ngoan đòi hỏi như thế!


Hãy noi gương can đảm của những vị lãnh đạo tinh thần như Mahatma Gandhi (Ấn Độ), linh mục Jerzy Popiełuszko (Ba Lan), tổng giám mục Oscar Romero (El Salvador), tổng giám mục Pius Ncube (Zimbabwe), hồng y Jaime Sin (Philippines), tổng giám mục Nguyễn Kim Điền (Việt Nam), hòa thượng Thích Huyền Quang (Việt Nam)… Giáo Hội Công giáo chưa bao giờ kết án những vị lãnh đạo tinh thần can đảm này là “làm chính trị”, là hành động trái với luật Giáo Hội như một số vị lãnh đạo tinh thần tại Việt Nam từng kết án linh mục Nguyễn Văn Lý! Trái lại, Giáo Hội luôn luôn biểu dương các vị ấy như những gương mẫu cho toàn thể Kitô hữu (4*)! Các vị này sẵn sàng chân thành đối thoại với tất cả mọi người, nhưng các vị không chỉ ngừng lại ở việc đối thoại mà luôn luôn kết án kẻ gây bất công dù họ đang nắm chính quyền (5*), sẵn sàng tạo áp lực buộc các nhà nước độc tài phải thực thi công bằng xã hội! Nếu có kết án thì Giáo Hội Công giáo chỉ kết án những vị lãnh đạo tinh thần như TGM Stanislaw Wielgus (Ba Lan) đã không những im lặng trước bất công mà lại còn sẵn sàng làm tay sai cho cộng sản!

Thiết tưởng khi giáo xứ Thái Hà lên tiếng đòi nhà cầm quyền CSVN thực thi công lý và khi nhà cầm quyền CSVN đàn áp họ, thì mọi người Công giáo, mọi giáo phận − và cả các tôn giáo khác − trên toàn quốc nên tỏ tình liên đới với họ… Thật đáng phục các giáo dân ở khắp nơi đã đổ dồn về Thái Hà cả mấy ngàn người để dự thánh lễ và tham gia biểu tình cầu nguyện hầu tăng cường sức mạnh cho giáo dân Thái Hà! Cũng thật đáng ca ngợi một số giáo xứ tại Việt Nam cũng như hải ngoại đã tổ chức những buổi công khai cầu nguyện cho cuộc tranh đấu đòi công lý và tự do tôn giáo của Thái Hà để biểu lộ cụ thể tình liên đới huynh đệ với giáo dân giáo xứ này. Và thật an ủi cho Thái Hà khi có nhiều nơi tại hải ngoại đã tổ chức việc ký thỉnh nguyện thư yểm trợ giáo xứ này được hàng vạn giáo dân trên thế giới tham gia. Rất mong các giáo xứ tại Việt Nam và trên thế giới tiếp tục công khai tổ chức những buổi cầu nguyện hoặc ký thỉnh nguyện thư như thế để thể hiện tinh thần liên đới trong Giáo Hội.

Nếu tất cả các giám mục, linh mục và giáo dân Việt Nam trên toàn quốc cũng như hải ngoại đều biểu lộ tinh thần liên đới ấy cách cụ thể như thế thì Giáo Hội Việt Nam sẽ có sức mạnh và sẽ khai dụng được sức mạnh ấy. Thử hỏi nếu chúng ta cứ âm thầm cầu nguyện mà không hề có một hành động thực tế nào đi đôi với việc cầu nguyện ấy thì phải chăng chúng ta đang thực hành một “đức tin chết” (6*)? Đó là thứ đức tin ru ngủ khiến người ta không hành động như lương tâm đòi buộc mà vẫn cảm thấy an tâm vì đã cầu nguyện, tin tưởng rằng Chúa sẽ làm hết mọi sự thay cho mình! Biểu lộ tinh thần liên đới trong trường hợp này không chỉ là việc nên làm mà còn là bổn phận buộc lương tâm những Kitô hữu nào còn yêu mến Thiên Chúa và Giáo Hội.

Chúng ta − người dân Việt Nam nói chung, giáo dân Thái Hà nói riêng − đã bị CSVN lừa dối quá nhiều lần. Một khi đã quyết tranh đấu cho công lý thì hãy quyết liệt và kiên trì tranh đấu tới cùng. Khi cuộc tranh đấu lên đến cao điểm buộc nhà cầm quyền CSVN phải giải quyết, thì họ sẽ lên tiếng kêu gọi đối thoại, thương lượng, đặc biệt với các vị lãnh đạo Giáo Hội, hoặc hứa hẹn sẽ thỏa mãn những đòi hỏi của giáo dân Thái Hà. Lúc đó, thiết tưởng chúng ta nên cẩn trọng, đừng mắc mưu họ thêm một lần nữa. Chắc chắn đó chỉ là phương cách “tháo ngòi nổ”, “dập tắt lửa” mà họ đã từng sử dụng không biết bao nhiêu lần rồi. Chúng ta từng có nhiều kinh nghiệm trong chuyện này. Chưa đạt được mục đích − mới chỉ “nắm đằng lưỡi”, chưa “nắm được đằng chuôi”, nghĩa là chưa thật sự được hoàn trả lại đất đai bị tước đoạt − mà chúng ta đã ngừng tranh đấu thì kể như toàn bộ công trình tranh đấu vất vả của chúng ta từ trước đến nay trở thành “công dã tràng”: “nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì!” Lúc đó chúng ta sẽ bị mang tiếng là “thiếu trí” và CSVN lại thêm được một thành công trong chủ trương lường gạt của họ!

Ước mong cuộc tranh đấu cho công lý và tự do tôn giáo của Thái Hà đi đến kết quả tốt đẹp nhờ sự khôn ngoan, kiên trì và can đảm đấu tranh của giáo dân Thái Hà, và nhờ sự liên đới cụ thể của toàn Giáo Hội Việt Nam trong và ngoài nước, của các tôn giáo bạn và của thế giới tự do.

Washington DC, ngày 09-9-2008

--------------------------------------------------------------------------------
Chú thích:
(1*) Hiến pháp Việt Nam cho phép công dân biểu tình, nhưng trong thực tế muốn biểu tình thì phải xin phép. Kinh nghiệm quá khứ cho thấy: nếu xin phép thì tới 99% là nhà nước không cho. Nếu cứ biểu tình thì sẽ bị kết án là gây rối trật tự. Do đó, người dân cần phải vận động áp lực Quốc hội CSVN bỏ điều khoản hiến pháp cho phép biểu tình vào sọt rác, không thể để điều khoản ấy trong hiến pháp hầu lường gạt quốc tế và người dân trong nước nữa.
(2*) Trong hàng giáo phẩm của Giáo Hội Công giáo Việt Nam, chỉ có TGM Ngô Quang Kiệt lên tiếng tương đối mạnh mẽ, các giám mục khác dường như không có mấy vị công khai tiếp tay với TGM Hà Nội. Một vài giám mục viết thư hiệp thông với Thái Hà nhưng chỉ dừng lại ở mức “hiệp thông trong âm thầm cầu nguyện” chứ không hiệp thông ở mức cao hơn. Một giáo xứ, một giáo phận đã đấu tranh cho quyền lợi chính đáng của mình và đang bị ức hiếp, bị đàn áp dã man mà các giáo xứ, giáo phận khác không lên tiếng ủng hộ thì rõ ràng là thiếu tình liên đới. Đúng ra các tín đồ tôn giáo phải thực hiện tinh thần “một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ”!
(3*) Ngây ngô như nhiều người từng làm việc cho chế độ VNCH trước đây: khi cộng sản miền Bắc cướp được miền Nam, dù có điều kiện vượt biên tìm tự do, họ vẫn muốn ở lại Việt Nam để cộng tác với chế độ mới xây dựng đất nước. Họ nghĩ rằng CSVN cũng là người Việt như mình, lẽ nào họ lại xử tệ với mình! Nhưng chỉ vài tháng sau khi miền Nam sụp đổ, bị mời đi cải tạo, được “nếm mùi” cộng sản, họ mới sáng mắt ra để thấy rằng mình quá khờ khạo, ngây ngô! Thì ra bài học quí giá mà tổng thống Thiệu dạy − “đừng tin… hãy nhìn…” − họ vẫn chưa nằm lòng!
Những người chủ trương đối thoại với cộng sản thường quên mất bản chất xảo trá và gian ác cố hữu của CSVN, vốn là một “đảng cướp”. Đảng cướp này chỉ khác với các đảng cướp khác ở chỗ đã cướp được cả chính quyền. Họ tưởng rằng CSVN cũng như những chính quyền trong thế giới tự do, sẵn sàng lắng nghe ý kiến của người dân để biết được ý dân, tìm ra lẽ phải để thực hiện, hầu phục vụ người dân cách hữu hiệu, đúng với nguyện vọng của dân hơn.
Thực ra, CSVN chỉ chấp nhận đối thoại với những thế lực lớn hơn hoặc ngang tầm với họ, và họ coi đối thoại chỉ như một kế “hoãn binh” khi họ lâm vào thế kẹt hay không thuận lợi. Một khi ra khỏi thế kẹt đó rồi, họ sẽ phủ nhận tất cả những gì họ hứa hẹn hay cam kết trong cuộc đối thoại đó. Thiết tưởng lịch sử Việt Nam đầy dẫy những bằng chứng cho điều này. Trong việc tranh đấu hiện nay, khi cao trào tranh đấu lên cao khiến CSVN lâm vào thế kẹt, thế bí, buộc họ phải nhượng bộ, thì họ sẽ hô hào đối thoại, thương lượng, hoặc hứa hẹn sẽ giải quyết thỏa đáng (chỉ hứa hẹn thôi!) Chỉ cần mình ngưng tranh đấu để chấp nhận đối thoại hay thương lượng là họ đã đạt mục đích của họ! Việc ngưng tranh đấu đòi lại tòa khâm sứ theo yêu cầu của hồng y Bertone kết quả thế nào mọi người đã rõ. Thiết tưởng khi đã có nhiều kinh nghiệm hay bài học trước đó về bản chất của họ mà mắc mưu họ thì đã là “thiếu trí” rồi! Nếu lại mắc mưu họ thêm một hay nhiều lần nữa thì quả là… (không biết nên dùng từ gì để diễn tả cho đúng mà tránh khỏi xúc phạm đây!...)
(4*) Việc kết án linh mục Nguyễn Văn Lý “làm chính trị” trái với luật Giáo Hội phải chăng là một cách bào chữa cho thái độ im lặng của mình trước những bất công đầy dẫy trong xã hội mà đáng lẽ theo lương tâm và theo tinh thần của Giáo Hội thì mình phải lên tiếng? Đã không can đảm lên tiếng chống bất công xã hội lại còn lên tiếng dèm pha nói xấu người làm điều ấy thì… không biết phải nói sao!
Đã chủ trương “không làm chính trị” mà lại cho phép bề dưới mình tham gia quốc hội bù nhìn, vào “Ủy Ban Đoàn Kết” hoặc “mặt trận tổ quốc”, chấp nhận họ làm công cụ cho một chế độ cướp của phi nhân, nghĩa là làm sao? Tham gia tranh đấu chống bất công, tố cáo tội ác do chế độ độc tài gây ra theo lương tâm đòi buộc như Lm Nguyễn Văn Lý, TGM Nguyễn Kim Điền, TGM Oscar Romero… là điều Giáo Hội cho phép và khuyến khích thì các vị này lại cho đó là “làm chính trị”, là đi ngược lại đường lối Giáo Hội. Còn tham gia vào các tổ chức chính trị của một chế độ, nhất là một chế độ độc tài phi nhân, là điều mà Giáo luật không cho phép, thì các vị lại chấp nhận và không coi đó là làm chính trị! Như vậy có ngược đời không? (xem bài “Giáo Hội và chính trị” của tác giả
trong http://www.tiengnoigiaodan.net/ykienbd/yk_ghvct.html)
(5*) Một trong những quan niệm khá phổ thông trong các tôn giáo tại Việt Nam, nhất là trong giới tu sĩ, đó là: bổn phận hay bản chất của mọi tôn giáo là phải chống lại sự ác, ngăn cản kẻ làm ác, nhưng nếu chống lại sự ác do nhà cầm quyền CSVN gây ra thì là làm chính trị, là lỗi luật tôn giáo. Nói cách khác, bất kỳ sự ác do ai gây ra thì mọi tín đồ tôn giáo phải chống; chỉ riêng sự ác do CSVN gây ra thì không được chống, vì chống lại là phạm tội, tội “làm chính trị”! Thật phi lý! Không hiểu những vị học “lý đoán” trong các chủng viện Công giáo và Tin lành, hay những vị học triết lý trong các viện Phật học nghĩ sao về quan niệm đang phổ biến này, một quan niệm có tính ru ngủ, làm tê liệt ý thức và khả năng chống ác của các tôn giáo!? Dạy người ta quan niệm như thế liệu có phải là “mù dắt mù xuống hố” như Đức Giêsu đã ví von nhóm Pharisêu chăng? (x. Mt 15:14)
(6*) Kinh thánh viết: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Thư Giacôbê 2,17). Trong Giáo Hội Công giáo cũng có châm ngôn “ora et labora”, “pray and work”, “cầu nguyện và hành động” với ý nghĩa: cầu nguyện và hành động phải đi đôi với nhau. Cầu nguyện mà không hành động thì không phải là cầu nguyện thật lòng. Còn hành động mà không cầu nguyện thì hành động sẽ thiếu sáng suốt, không đủ sức mạnh vì thiếu sự phù trợ của “Ơn Trên”, khó đem lại kết quả tốt đẹp.

© Nguyễn Chính Kết
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Tin Cộng Đồng

Post by uncle_vinh »

Image
Image
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Tin Cộng Đồng

Post by uncle_vinh »

Người Việt Houston phản đối sự hiện diện của tòa lãnh sự VN

Hưng Yên, thông tín viên RFA
2008-10-23

Từ khi biết chính phủ VN định thành lập Tổng Lãnh Sự tại thành phố Houston, bang Texas Hoa Kỳ, nhiều người Việt Nam sinh sống tại đây đã có phản ứng mạnh.

Hàng chục ngàn người đã ký vào thỉnh nguyện thư gửi đến các vị dân cử và chính quyền thành phố để phản đối. Mới đây, dân biểu liên bang, ông Al Green đã có buổi tiếp xúc với cộng đồng người Việt tại Houston.

Thông tín viên Hưng Yên của ban Việt ngữ chúng tôi có mặt tại chỗ và tường trình:

Thỉnh nguyện thư 16 ngàn chữ ký

Hồi tháng 9, một phái đoàn do chủ tịch cộng đồng tại Houston là luật sư Hoàng Duy Hùng dẫn đầu đã có buổi gặp gỡ với chính quyền thành phố để trao thỉnh nguyện thư có gần 16 ngàn chữ ký người Việt không chấp nhận Tổng lãnh sự VN tại Houston.

Trưa chủ nhật ngày 19 tháng 10, tại Trung Tâm sinh hoạt cộng đồng, Dân biểu liên bang, ông Al Green đã có buổi gặp gỡ cộng đồng để ghi nhận ý kiến của đồng hương về việc này. Khoảng 600 người đã đến tham dự, dù hội trường không còn chỗ ngồi, hàng trăm người phải chen chúc và chịu đứng ở ngoài hành lang.

Khi ông chủ tịch cộng đồng hỏi muốn có Tổng lãnh sự VN tại Houston không? Tất cả mọi người đều ho to: “Không - Không” trước sự chứng kiến của ông Al Green.

Không – Không. Không cần Tổng lãnh sự VN.

Dân biểu Al Green đã lắng nghe ý kiến của đại diện nhiều hội đoàn cựu quân nhân, hội tiểu thương, giới trẻ và đồng hương. Hầu hết đều phản đối Tổng Lãnh Sự VN tại Houston. Uyên Phạm là sinh viên trẻ, thuộc thế hệ thứ hai đại diện cho giới trẻ phát biểu ngắn ngọn nhưng dứt khoát:

“Chúng tôi không muốn Tổng Lãnh Sự VN hiện hữu ở đây.”

Uyên Phạm đã giải thích lý do cô phản đối như sau:

“Lãnh sự quán ở đây sẽ chia rẽ cộng đồng của mình, làm xáo trộn cộng đồng lên hết. Mình không cần nó ở đây, mình đang ở đất nước tự do mình không cần cộng sản đến đây giúp đỡ hay bất cứ lý do gì. Chúng tôi là những người dân tị nạn ở đây không có cần họ đến đây. Họ đã làm khổ dân Việt Nam của mình nhiều quá rồi.”

Ông Phan Như Học đại diện những tiểu thương tại Houston phản đối sự hiện hữu của Tổng lãnh sự VN dưới bất kỳ hình thức nào và bất kỳ ở nơi đâu tại Hoa Kỳ:

“Nếu họ có bất kỳ văn phòng nào ở đây cho dù là thương mại, quảng cáo chính trị hay bất cứ cái gì chúng tôi đều phản đối.”

Ông Nguyễn Văn Chí, sinh sống tại Houston cho biết:

“Vì lý do nào đó mà có Tòa Lãnh Sự cộng sản ở đây thì mỗi ngày chúng tôi đều phải đi biểu tình, đi biểu tình làm cho sự xáo trộn của thành phố Houston này nhiều lên nữa.”

Trong buổi gặp gỡ này, dân biểu liên bang Al Green đã nhận Thỉnh Nguyện Thư từ cộng đồng phản đối sự thành lập Tổng Lãnh Sự VN tại Houston trong có có gần 16 ngàn chữ ký của đồng hương. Ông Al Green cũng đã tự nguyện ký tên vào thỉnh nguyện thư này:

“Tôi sẽ ghi tên của tôi vào trên cùng trong danh mục chữ ký của Thỉnh Nguyện Thư này. Tổng Lãnh Sự VN hiện diện ở đây không chỉ đơn thuần là một tòa nhà mà còn tượng trưng cho nhiều điều mà chúng ta cần đấu tranh phản đối trước khi nó bắt đầu hình thành tại quốc gia Hoa Kỳ này. Bởi vì nó tượng trưng cho sự vi phạm nhân quyền.”

Vì sao phản đối?

Anh Trần Tân, một cư dân Houston, tuổi ngoài 40 cho biết lý do anh không chấp nhận Tổng lãnh sự VN tại Houston như sau:

“Mình đã phải đi trốn họ, mình đã phải đi thoát xa khỏi họ. bây giờ họ lại đến, họ đến không phải là thực sự đến vì sự phát triển cho đất nước, làm lợi cho đất nước mà có ý đồ riêng tư của họ nhiều hơn.

Họ càng phát triển thì càng có hại cho đất nước. Đó là lý do mà chúng tôi chống. Nếu như là một chính phủ dân chủ, một chính phủ tốt đẹp thì vấn đề đó có lợi cho Việt Nam thì không có người Việt Nam nào đi chống như vậy. Chúng tôi chống là vì chúng tôi thấy có hại cho Việt Nam, là vì càng có cơ hội cho chính phủ tham nhũng phát triển nhiều hơn.”

Đối với anh John Nguyễn là một thanh niên trẻ tuổi thì lý do mà anh phản đối là:

“Mình không muốn họ đi theo mình. Mình không muốn họ qua đây để phá nát tiền đồn tự do.”

Một số những dân biểu người Mỹ gốc Việt cũng đã có những hành động cụ thể trong việc ngăn chặn sự thành lập Tổng Lãnh Sự VN tại Houston. Ông Hubert Võ dân biểu hạ viện tiểu bang Texas, một người sát cánh với cộng đồng trong việc này cho biết:

“Hubert Võ cùng với những vị dân cử người Mỹ gốc Việt của bang California như dân biểu Trần Thái Văn và những anh chị em nghị viên thành phố của nhiều thành phố khác nhau đã cùng gửi một lá thư tới bà ngoại trưởng Rice cũng như bộ ngoại giao để phản đối thành lập tòa lãnh sự VN tại Houston. Việc này đã gửi đi hơn một tháng nay.’

Sau buổi tiếp xúc với cộng đồng người Việt tại Houston, dân biểu liên bang Al Green cho biết sẽ viết thư cho bộ ngoại giao Hoa Kỳ trình bày nguyện vọng của cộng đồng và ông sẽ tiếp tục hỗ trợ cho cộng đồng tất cả những gì mà ông có thể:

“Thật rõ ràng là cộng đồng người Việt tại đây không muốn có Tổng lãnh sự VN tại Houston. Chúng tôi sẽ làm tất cả những gì mà chúng tôi có thể để hỗ trợ cho cộng đồng về việc này.”

Theo thông lệ quốc tế, việc mở các lãnh sự quán sẽ được thực hiện trên nguyên tắc đối đẳng. Trong khi Hoa Kỳ cũng đã xúc tiến việc mở lãnh sự quán tại Đà Nẵng thì việc thành lập lãnh sự quán VN tại Houston đã bị phản đối bởi nhiều người Việt Nam sinh sống tại đây.

(Hưng Yên tường trình từ Houston, Texas).
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Tin Cộng Đồng

Post by uncle_vinh »

Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện họp báo giải tỏa chuyện tập thơ Vô Đề

Sunday, October 26, 2008
Nguyên Huy/Người Việt

Image
Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện bước vào phòng họp báo.
(Hình: Ðỗ Dzũng/Người Việt)


Image
Nhà báo Hoàng Dược Thảo phát biểu tại cuộc họp báo.
(Hình: Ðỗ Dzũng/Người Việt
)

GARDEN GROVE, California (NV).- Khoảng 500 đồng hương Nam California đã đến tham dự cuộc họp báo của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện tại khách sạn Ramada Plaza, Garden Grove, vào chiều Thứ Bảy, 25 Tháng Mười, vừa qua.

Cuộc họp báo theo những thông báo trên báo chí truyền thông là nhằm để giải tỏa dư luận xôn xao về tư cách tác giả tập thơ “Vô Ðề” còn gọi là “Hoa Ðịa Ngục”, “Tiếng Vọng Từ Ðáy Vực” và một số tên gọi khác nữa của tác giả lúc đầu ghi là Vô Danh.

Phải mất nhiều phút trước khi khai mạc để ổn định được trật tự vì số người tham dự quá đông so với sức chứa của phòng khánh tiết và vì những lúng túng trong việc tổ chức.

Mở đầu, nhà văn Trần Phong Vũ trong ban tổ chức phát biểu rằng: “Chúng ta đến đây không phải để tranh luận, chỉ mong có thời gian tạo một sự thông cảm với nhau. Buổi họp báo sẽ không có phần trao đổi với quần chúng mà chỉ có giới truyền thông báo chí đặc biệt là nhật báo Saigon Nhỏ sẽ có 20 phút để trình bày.”

Tiếp đó, thay vì nhà thơ Nguyễn Chí Thiện nói trước, thì ban tổ chức lại mời bà Hoàng Dược Thảo, chủ nhiệm kiêm chủ bút nhật báo Saigon Nhỏ, lên nói trước nên một số người tham dự đã không đồng ý và yêu cầu ông Nguyễn Chí Thiện nói trước cho đúng thủ tục cuộc họp báo của ông.

Sau khi ngỏ lời cảm ơn mọi người đã đến tham dự ngoài sự dự trù, ông Thiện đã đề cập đến sự im lặng của ông lâu nay trước những bài viết của tờ báo Vạn Thắng. Nhà thơ đọc lên một số bài viết miệt thị cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu của tờ báo này để nói rằng những bài viết về ông chẳng đáng phải quan tâm. Nay thì báo Saigon Nhỏ cũng “bịa đặt nhiều chuyện” và “thách thức” đã khiến ông phải quan tâm.

Tiếp đó nhà thơ Nguyễn Chí Thiện đã mời hai người có liên quan đến những bài viết trên Saigon Nhỏ là cựu Trung Tá QLVNCH Nguyễn Công Giân (anh ruột của ông Thiện) và bà Jean Libby lên cải chính những điều báo Saigon Nhỏ nêu ra trước đây. Trung Tá Giân nhấn mạnh nhiều lần là trong suốt thời gian từ 1954 đến 1975 ông là sĩ quan trong QLVNCH làm sao ông có thể ra được ngoài Bắc như báo Saigon Nhỏ viết. Còn bà Libby thì xác nhận không hề lấy bài thơ của ông Thiện ra khỏi website vietnamlit.org.

Tiếp lời hai nhân chứng này, nhà thơ Nguyễn Chí Thiện cho rằng “không muốn tranh luận mà chỉ thấy cần thiết phải giải thích vì chỉ là sự vu khống ác ý”.

Tuy nhiên, vẫn theo nhà thơ thì những vu khống này ông không bỏ qua được vì sự an ninh của ông và những người có liên quan, nên ông sẽ đưa ra trước pháp luật sự việc này.

Nói về việc thử nghiệm chữ viết thì nhà thơ Nguyễn Chí Thiện cho rằng thư giảo nghiệm của bà Hoàng Dược Thảo “chỉ là sự lừa bịp” và ông đã đề nghị “cả hai phía cùng bỏ ra $200,000 đặt cọc giảo nghiệm chữ ký của ông. Bên nào thua sẽ mất số tiền này.”

Ngay sau đó, bà Hoàng Dược Thảo được mời phát biểu. Bà cho rằng “là một cơ quan ngôn luận bà không muốn dính vào chuyện an ninh, chính trị, tình báo mà vấn đề đặt ra là ông Nguyễn Chí Thiện có phải là tác giả tập thơ Vô Ðề hay không”.

Về những cải chính của những chứng nhân có mặt, bà Hoàng Dược Thảo cho rằng “tôi nghe như vậy và sẵn sàng để diễn đàn cho mọi người...” và bà cũng cho rằng “là một nhà báo chúng tôi có quyền loan tin, đặt vấn đề về những gì mà chúng tôi thắc mắc”. Lúc này hội trường bỗng khá ồn ào, có nhiều tiếng phản đối lời phát biểu của bà Hoàng Dược Thảo.

Ðến đây thì ông Nguyễn Chí Thiện nhắc lại việc thách đố của ông với số tiền đặt cọc $200,000 cho mỗi bên thì bà Hoàng Dược Thảo nói rằng “chúng tôi làm văn hóa, chúng tôi không có chấp nhận chuyện đó”.

Sau đó, bà Hoàng Dược Thảo có yêu cầu ông Nguyễn Chí Thiện viết tuồng chữ của mình bằng tiếng Pháp trên một tờ giấy.

Ông Thiện đáp: “Tiếng Pháp của tôi không bằng của bà vì bà học trường Tây.” Sau đó, ông Thiện nói một tràng tiếng Pháp với bà Thảo.

Lúc này hội trường lại nổi lên nhiều tiếng la trong khi trên diễn đàn ban tổ chức và ông Nguyễn Chí Thiện đã thông báo là bà Hoàng Dược Thảo đã sử dụng hết nửa thời gian quy định trên diễn đàn. Và thấy chỉ còn được nói có 10 phút để đặt vấn đề ông Nguyễn Chí Thiện có phải thật sự là tác giả tập thơ Vô Ðề hay không nên bà Hoàng Dược Thảo đã bỏ ra về trong tiếng la ó của một số người phản đối bà.

Những phút sau đó, một nửa số người trong hội trường đã ra cả ngoài tiếp tục bàn luận. Trong khi đó trong hội trường cuộc họp báo của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện vẫn tiếp tục. Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện đã trả lời nhiều câu hỏi của cử tọa để làm sáng tỏ nhiều vấn đề mà nhật báo Saigon Nhỏ đã nêu lên trong thời gian qua và nhà thơ cũng cho biết nhiều nhân chứng khác nữa đã xác định về nhân thân của ông và về tập thơ “Vô Ðề”.

Sau cuộc họp báo, nhà thơ Nguyễn Chí Thiện có phân phát cho những người tham dự một số tài liệu do một chuyên viên giảo nghiệm chữ viết xác nhận tuồng chữ của ông.

Ngày hôm sau, Chủ Nhật, 26 Tháng Mười, nhà thơ Nguyễn Chí Thiện đã đưa cho nhật báo Người Việt một số tài liệu tương tự. (N.H.)
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Tin Cộng Đồng

Post by uncle_vinh »

CHUYỆN CÔ TIM

Tú Kép, Nov 05, 2008

Trước khi vào chuyện, Tú Kép xin kể cho bà con nghe một chuyện dzui: Ngày xửa ngày xưa, có một ông quan rất thanh liêm. Một đời làm quan mà khi hưu trí, chỉ có một mái tranh lụp xụp. Đúng là một túp lều tranh, hai trái tim vàng. Một hôm, quan ông đau nặng. Nhà nghèo không tiền thuốc thang. Quan ông nghĩ rằng phen nầy quan sẽ toi mạng. Nhưng không hiểu sao, sau một thời gian hôn mê, quan tỉnh lại rồi dần dần mạnh khỏe. Khi lành bệnh, trong một bữa cơm, quan hỏi vợ: "Này bà, hôm tôi đau nặng, tưỏng sắp chết, bà lấy tiền đâu mà thuốc thang tẩm bổ cho tôi được khỏe mạnh trở lại?" Quan bà sợ quá, rụt rè trả lời với quan ông rằng: "Tôi thưa thật với ông, xin ông đừng rầy la tôi, thì tôi mới dám nói." Quan ông gật đầu đồng ý: Bà vợ liền kể: "Ông một đời làm quan thanh liêm, không ăn hối lộ bất cứ của ai. Làm gì có tiền để giành. Có một lần ông giúp người ta. Người ta biết ông rất thanh liêm nhưng người ta không dám đưa tiền trả ơn, mà người ta chỉ hỏi tôi rằng ông tuổi gì. Tôi tình thật trả lời ông tuổi tý. Ngưòi ta liền mang đến tặng cho tôi một con chuột bằng vàng. Tôi thấy đẹp quá, cất làm kỷ niệm, không ngờ hôm ông đau nặng, nhà hết tiền, tôi nhớ đến con chuột, liền đem đi bán để thuốc thang cho ông." Nghe đến đây, quan ông đập bàn cái rầm, mấy đĩa thức ăm đạm bạc trên bàn rung rinh, suýt rớt. Quan bà sợ quá năn nỉ: "Thôi mà ông, chuyện xưa rồi, tôi đã xin ông tha lỗi tôi mới dám nói, ông còn la tôi nữa sao?" Quan ông liền bảo: "Không, tôi muốn nói với bà rằng tại sao bà không nói với người ta tôi tuổi sửu (con trâu) mà lại nói tôi tuổi tý (con chuột)?" Hà hà, con trâu bự hơn con chuột bà con ơi!

Câu chuyện nầy chỉ là một chuyện tầm phào cho vui, nhưng cũng có một ý nghĩa nào đó cho chúng ta suy nghĩ. Con người dù thanh liêm trong sạch, nhưng rồi cũng có lúc, do hoàn cảnh nào đó, do một nhu cầu nào đó, do điều kiện nào đó, lại yếu lòng trước đồng tiền. Vì vậy, ở các nước tây phương nầy, trước vấn đề đồng tiền, để cho chắc chắn, việc quản lý tài chánh cần phải có cơ chế đầy đủ chứ không thể để một người, một mình nắm hết tiền bạc mà không có một nguyên tắc kiểm soát hay chi thu nào cả. Việc quản lý tiền bạc ít nhất phải có bộ "tam xên" tướng sĩ tượng. Ngoài giám đốc hay chủ tịch hay là cái ông gì đó, phải có thủ quỹ, có người chi thu, phải có hóa đơn, chứng từ đầu vào đầu ra… Việt Nam ngày nay luôn luôn có đủ bộ sậu như thế, mà Việt Nam cũng tham nhũng tràn lan. Tham nhũng ở Việt Nam ngày nay trở thành quán tính của cán bộ VC, đến nỗi ngày nay dân chúng trong nước kháo nhau rằng không tham nhũng thì không phải VC.

Thế mà vừa qua, ở Toronto, có một hiện tượng lạ lùng: Cô Tim Thụy Sĩ đến Toronto, nhân danh một hội từ thiện ở Việt Nam do cô lập ra, quyên tiền bà con để giúp Hội từ thiện của cô. Bà con Toronto vốn tốt bụng tốt dạ, mở hầu bao giúp đỡ cô Tim. Nghe nói có người cho cả chục ngàn, tiền đâu mà lắm thế? Tiền sạch hay tiền rửa? Tiền nữ hoàng chứ đâu phải tiền già râu của bọn mafia VC, mà tiêu xài sang quá dzậy? Tuy nhiên, nếu bà con tinh ý, trong cuộc lạc quyên nầy có ba điều lạ:

Điều lạ thứ nhất là tổ chức của cô Tim, chỉ có một mình cô Tim vừa làm giám đốc, vừa làm kế toán, vừa làm thủ qũy, vừa xuất chi, vừa thu nhập, nghĩa là một mình cô độc diễn chuyện tiền bạc. Điều nầy được mấy cái video, DVD không biết là để khen cô Tim quán xuyến mọi việc của hội từ thiện, hay là để báo động một cách kín đáo chuyện cô Tim độc diễn tiền bạc, lại được nhắc lui nhắc tới hoài hoài à.

Với số tiền ít ít, thì không sao, nhưng với những số tiền lớn, ai dám bảo đảm con tim của cô Tim không bồi rung động như quan ông quan bà trong chuyện con chuột kể trên. Nếu, Tú Kép nói nếu mà thôi, nếu cô Tim lỡ để quên con tim ở đâu đó, rồi lỡ quên một số tiền nào đó, hay làm rơi rớt một số tiền nào đó, nghĩa là Tú Kếu giả thiết là cô Tim rủi ro chứ không cố tình làm thất thoát tiền bạc, rồi chỉ đem về Việt Nam một ít trong số tiền cô quyên được, thì làm sao ai mà biết? Mà có biết thì làm gì nhau? Đó là chưa kể người ta rửa tiền, nhờ cô Tim cầm về Việt Nam cho đám Mafia VC thì sao? Nếu không rửa tiền thì tiền đâu mà có người dám bỏ ra sáu hay bảy chục ngàn cho cô Tim đem về?

Điều lạ thứ hai là khi nhận những số tiền khá lớn, cô Tim mang về Việt Nam cô sẽ khai báo thế nào với Việt Cộng? Việt Cộng có cho mang tiền ra vào dễ dàng không? Việt Cộng hay xài luật rừng, đóng hụi phần trăm. Cô Tim phải đóng tiền mãi lộ bao nhiêu? Một số người ở nước ngoài về Việt Nam cứu trợ, đều phải biết "lịch sự". Ngày nay, người ta không còn dùng "thủ tục đầu tiên", mà người ta quay qua biết "lịch sự" với nhau mà thôi. Ai biết "lịch sự" thì người đó biết sống. Cô Tim biết "lịch sự" nhiều ít cho Việt Cộng đây?

Điều lạ thứ ba, trên mỗi bàn tiệc ở nhà hàng tại Toronto mà cô Tim tổ chức, có đặt một phíếu lập danh sách người cho. Danh sách nầy ghi tên, họ, địa chỉ, số điện thoại, nghề nghiệp của người cho. Cách nầy, Việt Cộng gọi là lý lịch trích ngang.. Lý lịch trích ngang nầy, cô Tim nộp cho ai? Cho tòa đại sứ Việt Cộng ở Ottawa hay cho công an ở Tân Sơn Nhất? Qua danh sách nầy, tòa đại sứ Ottawa sẽ dễ dàng nắm rõ những nhà "hảo tâm" để tổ chức tiếp những cuộc "lạc quyên" khác hay sao?

Chuyện cô Tim ngang đây chưa hết. Sau Toronto, cô Tim thừa thắng xông lên, qua Hoa Kỳ. Cô đến nhiều nơi để quyên tiền. Một trong những chỗ cô đến là Hội Người Việt ở San Fernando Valley (California) ngày 25-10-2008. Vì đây là trụ sở Hội Người Việt nên có sẵn cờ Việt-Mỹ. Như thông lệ, Hội Người Việt làm lễ chào cờ trước khi sinh hoạt. Cờ Việt đây là cờ của người Việt tỵ nạn, tức cờ quốc gia. Cô Tim liền bỏ hội trường, ra ngoài Parking đứng, và không chào cờ Quốc Gia. Cô còn yêu cầu ban tổ chức phải cất hết các lá cờ quốc gia, cất luôn cái logo của Hội Người Việt, cô mới chịu vào.

Có một số người bênh vực cô Tim cho rằng cô Tim không chào cờ vì cô sợ khi về Việt Nam, công an Cộng sản sẽ làm khó khăn đối với cô. Lý luận nầy có người phản bác ngay. Sợ công an gây khó khăn, sao không ở lại trong nước xin tiền công an, mà lại xin công an chạy ra nước ngoài xin tiền tụi tỵ nạn là tụi chạy theo đế quốc sau năm 1975. Công an Việt Cộng dư biết tiền nầy là tiền móc ruột của ngụy quân ngụy quyền mà.

Đến nhà người ta xin tiền mà bảo người ta cất cờ đi. Lá cờ là biểu tượng thiêng liêng của người Việt Hải ngoại, không khác gì bàn thờ của cộng đồng người Việt Hải ngoại. Cô Tim tới trụ sở Hội Người Việt xin tiền mà cô bảo cất cờ đi, thì không khác gì cô tới nhà người ta xin tiền, mà bảo người ta cất bàn thờ đi. Cô chơi cha quá dzậy? Mà cái ông người Việt nào ở San Fernando Valley cũng kỳ quá dzậy. Đáng lẽ phải tống cổ kẻ nào không chịu chào cờ Việt Nam Quốc Gia ra khỏi trụ sở của người tỵ nạn, các ông lại để cho nó tiếp tục chương trình "xin đểu" như thế?

Tú Kép viết hai chữ "xin đểu" vì cô bé nầy láu cá quá, chỉ muốn xin tiền của cộng đồng người Việt Hải ngoại mà không kính trọng người Việt Hải ngoại, không kính trọng biểu tượng của cộng đồng. Hành động của cô Tim không phải là một sơ sót hay lỗi lầm. Hành động nầy là một sự cố ý, quyết tâm rõ rệt, là một chủ trương có sẵn trong đầu óc cô Tim.

Hành động nầy là bài bản mà công an cộng sản Việt Nam đã cho cô Tim học tập, giống y chang các ông bà tu sĩ quốc doanh, ra hải ngoại nầy chỉ khoái chơi các nốt đô-la, chứ tránh tất cả những nơi có treo cờ vàng. Việt Cộng bây giờ ở trong nước kiếm đủ tất cả mánh khóe để moi tiền hải ngoại, nhưng tiền thôi nhé, những chuyện khác, là VC xin chừa..

Lâu nay, người Việt hải ngoại biết chuyện cô Tim đều xuýt xoa khen ngợi: một cô gái trẻ ở nước ngoài vào Việt Nam giúp trẻ em Việt Nam, thật là quý hóa. Ai cũng quên rằng việc nầy là việc của Việt Cộng. Cán bộ VC chỉ tham nhũng, còn dân chúng sống chết mặc bay. Cô Tim làm việc nầy là gánh dùm gánh nặng cho VC. Cái nhãn hiệu người nước ngoài càng làm cho cô Tim dễ xin tiền, đem về nói là nuôi trẻ em, chính là giúp cho VC giải quyết tệ nạn xã hội do VC tạo ra. Đó là chưa kể bản thân cô Tim, không biết cô làm nghề nghiệp gì ở Thụy Sĩ, bây giờ qua Việt Nam chớp một cái job ngon lành, làm tiền một cách dễ ẹt. Job thơm quá mà, dại chi không làm, lại còn được đi du lịch miễn phí khắp nơi, được đón tiếp đãi đằng ăn ở, và không biết cô có rửa tiền dùm cho ai không?

Những lần viễn du quyên tiền, cô Tim thường tổ chức ở nhà hàng, ăn uống nhảy đầm nên chẳng có chào cờ. Lần nầy, tổ trát gặp phải trụ sở Hội Người Việt, có kính chiếu yêu yểm sẵn, nên mới loài chân tướng cô Tim là cô Tim đỏ. Thôi thì từ nay cộng đồng xin vĩnh biệt em Tim!

TÚ KÉP
(Toronto 4-11-2008)
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Tin Cộng Đồng

Post by uncle_vinh »

Trải hương theo gió

GS.Nguyễn Xuân Vinh


Vào khoảng cuối năm 1988, tôi được đọc một bài viết của bác sỉ Trần Quang Đệ, giáo sư thạc sĩ y khoa và là cựu viện trưởng Viện Đại Học Sài Gòn. Cụ viết mấy lời nhắn nhủ các y sĩ gốc Việt trong một bài đăng trên đặc san của Hiệp Hội Y Sĩ Việt Nam ở Canada. Bài viết bằng tiếng Pháp chứa đầy chân tình của một nhà trí thức nặng lòng với đất nước, trong những tháng năm cuối của cuộc đời, hằng mong sao thế hệ sau tiếp nối công cuộc xây dựng một chương trình bảo vệ sức khỏe tân tiến và hữu hiệu cho quê hương. Tôi đã dịch lại bài viết sang tiếng nước nhà, và vì tôi coi đó như là lời tâm tình bằng tiếng Việt của giáo sư Đệ với các môn sinh y khoa, tôi đã cố gắng để không làm sai trật những ý tưởng cao siêu của nguyên bản. Tôi đã gửi bản dịch cho một người bạn là cháu của cụ và sau này bản tiếng Việt đã được đăng trên báo Hồn Việt ở Cali để tớí một số độc giả rộng lớn hơn. Giáo sư Trần Quang Đệ đã mở đầu bài viết bằng câu:

'' Trong buổi chiều tàn bóng xế của cuộc đời, không còn điều kiện để dậy học, cũng không còn hành nghề, tôi thường hay tự hỏi: mình còn làm được điều gì lợi ích?''

Tôi nghĩ rằng giáo sư Đệ lúc đó đã ngoài tám mươi tuổi, đã là một giáo sư thạc sĩ đi tiền phong giảng dậy nhiều thế hệ bác sĩ y khoa ở Pháp và nhất là đã hy sinh mười lăm năm lợi tức dư giả ở nước người để về nước chấn chỉnh nền đại học quốc gia, nay cụ có thể tự mãn để tìm thú tiêu dao thanh nhàn. Vậy mà theo lời giáo sư Đệ, cụ vẫn còn muốn có cơ hội để góp phần gánh vác nhỏ nhoi, tầm thường của mình cho tập đoàn y sĩ Việt Nam. Cụ viết tiếp theo :

''Tôi nói tầm thường nhỏ nhoi với hết chân thành vì tôi nghĩ rằng tôi chưa làm tròn bổn phận công dân. Mặt khác, tôi còn thắc mắc trong lòng vì quê hương và dân Việt chưa cằn cỗi và tiêu diệt mà còn phải mãi mãi tồn tại, tiến hoá không ngừng, còn tôi, tuy còn đó mà chẳng thể làm thêm được gì để phụng sự cho quê hương dân tộc. Tôi hy vọng điều gì tôi để lại sau cuộc đời không làm tôi bị liệt vào những kẻ đã làm điều sái quấy đối với quốc gia và điều đó, cùng vơí tình yêu hiến dâng cho nghề nghiệp, làm cho đồng bào và tổ quốc tôi được tốt đẹp hơn. ''

Từ ngày tôi được đọc những lời tâm sự chí tình đó bằng tiếng Pháp, và tự mình ngồi dịch sang tiếng Việt, tới nay cũng đả hơn một giáp, một khoảng thời gian cho một thế hệ trẻ lớn lên, trưởng thành trong nghề nghiệp. Và cũng là một khoảng thời gian đưa cả một thế hệ tráng niên dần về bóng hoàng hôn của cuộc đời. Tuy không phải là một y sĩ nhưng tôi trân trọng lưu giữ bài của giáo sư Trần Quang Đệ vì tôi coi những lời nhắn nhủ của cụ như là những lời khuyên chung cho cả lớp hậu sinh và, từ nhiều năm nay, lúc nào tôi cũng cố gắng trong bổn phận của một ngươì dân gốc Việt đang sống lưu vong, xa quê nhà. Ở Đại Học Michigan là nơi tôi đã giảng dậy trong ba mươi năm, tuy không có hạn tuổi về hưu cho những giáo sư chính ngạch, nhưng tôi cũng đã xin nghỉ vào đầu mùa xuân của năm 1999. Và cũng như vị thầy tiền bối đã làm cách đây nhiều năm, mới đây theo lời yêu cầu của một vị chủ nhiệm một tờ báo tranh đấu cho Nhân Quyền tôi đã viết một bài bằng tiếng Anh với đề là: ''In The Twilight of My Career as an Educator''. Qua bài viết, nói về cảm nghĩ cuả mình trong ánh hoàng hôn của cuộc đời một nhà giáo, tôi nhìn lại chặng đường đã qua, duyệt những thành quả của thế hệ trẻ Việt đang vươn lên ở hải ngoại, của những thanh thiếu niên, cả nam và nữ mà tôi đã được tiếp xúc và nói chuyện với họ, để rồi tự hỏi rằng: mình còn làm được điều gì lợi ích cho cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản, và rồi đây cho quốc gia và dân tộc?


Theo đề nghị của ông Viện truởng Đại Học Michigan, trong buổỉ họp cuối năm 1998, Hôị Đồng Nhiếp Chính đã vinh tặng tôi chức vị Professor Emeritus of Aerospace Engineering, một chức vị hoàn toàn có tính cách hành chánh để tôi được tiếp tục hưởng những quyền lợi và xử dụng những phương tiện của đại học như những giáo sư tại chức. Điều này cũng tránh cho tôi phải dùng những danh từ như cựu giáo sư, cựu tư lệnh,. .., và một số những từ khác về những chức vụ đã khoác lên vai tôi dàn trải suốt một nửa thế kỷ kể từ khi bước chân vào đờì. Nhưng điều làm cho tôi cảm kích hơn nữa là cùng một lúc tôi nhận được bản tuyên dương của hội đồng, lồng trong khung kính với triện đóng của đại học, và chữ ký của ông Viện trưởng Lee C. Bollinger, một luật gia lỗi lạc về hiến pháp Hoa Kỳ, và cũng là một trong những người đã được những Đại Học Harvard và Columbia chú ý đến và muốn mời vào chức vụ Viện trưởng. Đoạn cuối của bảng tuyên dương được viết như sau :

''Besides his outstanding career as a researcher and educator, Professor Vinh is widely recognized for his leadership and mentor-ship to the Vietnamese community. A widely-read novelist and poet, he was awarded the prestigious Vietnam National Literature Prize in 1961. He has been much in demand as a speaker for Vietnamese organizations on such topics as education, culture, society, and the future of Vietnam and the Vietnamese people. He is widely recognized as a role model within the Vietnamese community in North America and elsewhere''..

Nếu tôi là một giáo sư Việt Học thì chắc không ai thấy ngạc nhiên về câu tuyên dương ở trên. Nhưng vì tôi lại là một giáo sư chuyên giảng dậy và làm khảo cứu về toán học và khoa học không gian nên theo tôi nghĩ thì sự ghi nhận đó đã chứng tỏ rằng những bạn đồng nghiệp và giới chức đại học ở Michigan đã biết tôn trọng những cố gắng ngoại vi của tôi ngoài sự đóng góp chuyên môn vào sự phát triển nền khoa học không gian Hoa Kỳ cả trong hai phương diện huấn luyện và khảo cứu. Suốt hai thập niên cuối của thế kỷ 20, vào những dịp đi dự những hôị nghị khoa học và thuyết trình theo lời mời của nhiều đại học từ Âu sang Á và Mỹ châu, kể cả hai miền Nam và Bắc và xuống cả Úc châu, tới những đô thị nào mà có đông người Việt cư ngụ tôi đều dành thì giờ để tiếp súc và nói chuyện với người đồng hương, đặc biệt là với giới trẻ, niềm hy vọng cho tương lai sáng lạn của chúng ta. Qua những chuyến đi, tôi đã quan sát và được biết những cố gắng, những đấu tranh và thành công của ngươì Việt ở khắp năm châu.

Vào năm 1992, ở một hội nghị để luận về sự thiếu hụt những chuyên gia ở Gia Nã Đại, ông William Winegard, lúc đó là Bộ Trưởng Khoa Học và Kỹ Thuật đã nói rằng: ''Chúng ta không thể nào có một xã hội có sự ganh đua để tiến hóa, nếu không có nhân sự có khả năng để ganh đua''. Nhân loại đã bước sang thế kỷ 21 và sau hai mươi lăm năm kể từ ngày lớp người Việt tỵ nạn đầu tiên đặt chân xuống Hoa Kỳ, hiện nay kể cả những con cháu đời thứ hai và đời thứ ba, dân tộc chúng ta đã có vào khoảng một triệu rưởi người sinh sống trên giải đất này, và như thế đã trở thành một nhân lượng đáng kể, còn lớn hơn dân số của nhiều tiểu bang trong Hợp Chủng Quốc. Vậy chúng ta thử đặt câu hỏi là chúng ta có phải là một sắc tộc đóng góp hữu hiệu vào sự ganh đua để tiến hóa của Hoa Kỳ hay không ?
Nếu ai nhìn vào bất kỳ một sự phát triển nào trên giải đất Hoa Kỳ cũng phải công nhận rằng có sự đóng góp của ngươì dân gốc Việt. Lấy một thí dụ là theo Bộ Thương Mại thì có hơn 300 người Mỹ gốc Việt đã có ít ra là 3 bằng sáng chế cho mỗi người. Riêng kỹ sư Đoàn Chính Trung, hiện nay là một trong những phó chủ tịch của Micron Corporation ở tỉnh Boise, tiểu bang Idaho, đã được cấp 132 bằng sáng chế. Người Việt Nam đặc biệt là xuất sắc trong những ngành kỹ thuật và khoa học bao gồm cả y, nha và dược học. Trong số hàng trăm trường y khoa ở khắp mọi nơi, nếu chỉ kể những trường thật nổi tiếng như ở những đại học Harvard, Yale, Johns Hopkins ở miền Đông và Michigan, Chicago, Northwestern ở miền Trung Tây. . . cho tới những trường ở miền Tây như Stanford và những đại học của California ở San Francisco, Los Angeles. . . thì ở nơi nào người ta cũng thấy những sinh viên Việt Nam mặc áo trắng chuyên cần theo học những lớp ở giảng đường hay theo thầy tập sự ở các bệnh viện và nhiều người đã tốt nghiệp ở khoảng đầu lớp khi ra trường. Theo một ước lượng thật dè dặt thì hiện nay ở Hoa Kỳ có vào khoảng 4200 bác sĩ gốc Việt đang hành nghề và như thế thì cứ một ngàn người chúng ta lại có 4 bác sĩ. Nói chung cho toàn thể đất nước thì tỷ lệ này chỉ có được ở những vùng thật trù phú. Nhiều bác sĩ, ở lớp đàn em và con cháu sau này, cũng đã trở thành giáo sư y khoa ở những đại học danh tiếng như những vị thầy tiền bối khi xưa. Một trong những người nổi tiếng là bác sĩ Nghiêm Đạo Đại, giáo sư tại trường đại học y khoa ở Pittsburgh và là người đã đưa ra một phẫu thuật tân kỳ khi ghép tụy tạng cho những người mắc bệnh tiểu đường loại I. Ông cũng đã đăng gần hai trăm bài khảo cứu trên những báo y khoa ở Bắc Mỹ. Trên một tờ báo y học ở miền Hoa Thịnh Đốn, hàng năm có đăng một danh sách các bác sĩ ưu hạng do chính các bạn đồng nghiệp chọn lựa. Đọc trên tập san ta có thể thấy trong bốn năm liền tên bác sĩ Trịnh Đức Phương trong bộ môn y khoa truyền nhiễm. Một người em trai của bác sĩ cũng là giáo sư y khoa ở đại học nổi tiếng Johns Hopkins. Ở thành phố Long Beach thuộc tiểu bang California, khi tới thăm bệnh viện và phòng khảo cứu về chứng bệnh Parkinson của hệ thần kinh của bác sĩ Trương Dũng chúng ta có thể gặp nhiều bệnh nhân đã vì nghe tiếng ông mà từ nước ngoài tới xin chữa chạy.

Cách đây hơn nửa thế kỷ, khi chúng ta còn sống êm đềm ở nước nhà thì ngoại trừ ở thành phố Sàigòn là một nơi đô thị rộn rịp, còn ở các tỉnh khác từ Nam chí Bắc thì chiếc xe đạp hai bánh là phương tiện di chuyển thông thường của mọi người. Vậy mà giờ đây, thế hệ trẻ Việt Nam khi gia nhập quân đội Hoa Kỳ đã không ngần ngại chấp nhận những thử thách tập luyện tân kỳ như lái những phi cơ phản lực siêu thanh. Một bạn trẻ đã được Tổng Thống Hoa Kỳ W. J. Clinton nhắc đến trong một bài diễn văn quốc tế như là một tấm gương thành công đặc sắc của người Việt di cư là anh Trần Như Hoàng, người đã tốt nghiệp thủ khoa từ Trường Sĩ Quan Không Quân Hoa Kỳ ỏ Colorado Springs. Sau này anh lại được học bổng Rhodes là một học bổng thật danh tiếng để đi tu nghiệp ở Anh Quốc trước khi trở về theo học và tốt nghiệp bác sĩ y khoa tại đại học Harvard. Bây giờ anh là một bác sĩ không quân chuyên về giải phẫu vi ti, phục vụ ở San Antonio, tiểu bang Texas cùng với ngươì vợ hiền cũng là một bác sĩ y khoa. Vào năm 1999, những ai coi tin tức truyền hình toàn quốc về lễ mãn khóa tại Trường Sĩ Quan Hải Quân Hoa Kỳ ở Annapolis đều được thấy một thiếu nữ Việt Nam là cô Nguyễn Thị Cẩm Vân đậu Á khoa ở một lớp có tới 737 sinh viên sĩ quan, cả nam lẫn nữ. Qua những buổi nói chuyện ở nhiều nơi, tôi đã gặp nhiều người gốc Việt là những sĩ quan cao cấp trong quân đội, có người là bác sĩ đại tá quân y chỉ huy một hệ thống bệnh viện ở cả một vùng rộng lớn. Thế hệ trẻ hơn có người đã lên tới cấp bậc trung tá và cũng đã có nhiều người từng tham dự chiến cuộc Vùng Vịnh ở Trung Đông. Một trong những sĩ quan trẻ tôi đã gặp và hỏi chuyện là thiếu tá không quân Phạm Hoàng Thư, một huấn luyện viên trên phản lực cơ siêu thanh F-16. Cũng như tôi đã từng đào tạo nhiều kỹ sư chế tạo phi cơ, anh đã là người huấn luyện những phi công xử dụng và như thế cả hai thế hệ chúng tôi đều đã đóng góp hữu hiệu vào sự phát triển của đất nước tạm dung này. Cộng đồng người Việt cũng đã có người đại diện trong hàng ngũ những phi hành gia không gian. Đó là tiến sĩ Trịnh Hữu Châu, tên Mỹ là Egene H. Trinh, một nhà vật lý học lỗi lạc ở tuôỉ năm mươi vào đầu thế kỷ mới, và là người đã được bay vào không gian bao la trên con thuyền con thoi vào đầu tháng bẩy năm 1995. Ngoài ông ra cũng có hàng trăm kỹ sư và khoa học gia khác làm việc trong đủ mọi ngành chuyên môn về hàng không và không gian. Ở các hãng kỹ nghệ tư cũng có nhiều người đạt được những thành tích đặc sắc. Chúng ta có thể kể trường hợp của tiến sĩ Cai Văn Khiêm. Với nhiều bằng phát minh thực dụng, anh đã là kỹ sư trẻ nhất đạt tới điạ vị là Chief Division Technologist của Hugues Aircraft Company.

Người Á Đông vốn tôn trọng sự học nên một số những người thành đạt đã đi theo ngành giáo dục. Ở hai bên bờ Đại Tây Dương, dưói trời Âu cũng như dưới trời Mỹ, ở những đại học nổi tiếng, dù cho là ở Sorbonne hay ở Harvard, hay ở một nơi nào mà sự giảng dậy có được một trình độ cao cấp là ta cũng thấy có những giáo sư người Việt ở đủ mọi ngành. Không phải là chỉ ở Âu châu hay Mỹ châu mà người mình mới đóng vai giảng dậy chữ nghiã, mà qua những lần thăm viếng phương xa, tôi đã được gặp và nói chuyện với những giáo sư gốc Việt ở Đông Kinh, đất nước Phù Tang, và ở Melbourne, hay là ở Brisbane, tận mãi Úc châu về Nam bán cầu.

Những thành công của người Việt không phải chỉ được biết đến trong giới hạn cộng đồng chúng ta mà thôi, mà nhiều lần đã được giới thiệu đến đại chúng Hoa Kỳ qua những cơ quan truyền thông quốc gia. Ở Đại Học California ở San Diego, một chiếc máy do giáo sư Nguyễn Hữu Xương chế tạo đã được National Institutes of Health (NIH) công nhận là một nguồn khảo cứu quốc gia. Với sự tài trợ để duy trì và điều hành của NIH, chiếc máy mà các nhà khảo cứu sinh hóa học, phải ghi tên để đợi đến lượt được được xử dụng, goị là Xương Machine, đã giúp rất nhiều cho sự nghiên cứu các tế bào liên hệ đến ung thư. Ở Gia Nã Đại, bà Hoàng Thiếu Quân đã là người phụ nữ đầu tiên được bổ nhiệm làm Giám Đốc Tài Chánh cho Thành Phố Montréal, với ngân sách hàng năm lên tới ba tỷ Gia kim. Một tin tức nữa mà tôi đã được đọc trong một đặc san kỷ niệm lễ về hưu trí của giáo sư Lê Thành Trai của Đại Học Notre Dame ở South Bend, Indiana, là bà đã là phụ nữ đầu tiên được bổ nhiệm là giáo sư thực thụ tại Trường Luật Khoa. Trong suốt hai mươi năm, cho tới ngày giáo sư Trai nghỉ hưu vào năm 1997, bà đã là người độc nhất phụ trách dậy môn Luật Thương Mại, ngoài những phần chuyên môn khác, và như vậy tất cả các sinh viên luật tốt nghiệp trong khoảng thời gian đó đều đã thụ huấn bà.

Những nhân vật nổi tiếng lẫy lừng như những người kể trên, thuộc thế hệ đầu tiên của người Việt di cư, phần lớn đều là những người đã có căn bản học lực theo chương trình Pháp, và không ít thì nhiều cũng đã có kinh nghiệm sống ở nước ngoài, nên đã dễ dàng hội nhập vào xã hội mới. Điều này cũng đúng cho những tài năng ở thế hệ thứ hai, những em đã lớn lên ở trên dải đất này. Nhiều bạn trẻ đã đạt được những thành tích thật đặc biệt. Ở Massachusetts Institute of Technology, mà mọi người thường biết đến dưới tên đọc ngắn gọn là MIT, anh Nguyễn Tuệ đã đạt được một kỷ lục phi thường là đậu được năm bằng cử nhân kể từ Vật Lý và Toán học cho tới Kỹ Thuật Điện Tử để rồi sau cùng lấy thêm một bằng cao học và một bằng tiến sĩ về kỹ thuật nguyên tử lực. Như thế là anh đã đoạt được bẩy văn bằng trong vòng bẩy năm tại đại học nổi tiếng MIT. Vào tháng Năm năm 1996, ở một buổi loan tin trong ngày cho toàn quốc, đài truyền hình ABC đã chọn một bạn trẻ Việt Nam là bác sĩ Nguyễn Ngọc Quang là người được vinh danh trong tuần lễ (ABC Person's of the Week). Khi còn là sinh viên, anh đã bị một tai nạn xe hơi làm hư hại nặng tới não bộ. Vậy mà sau này anh đã cố gắng luyện tập để học lại được tất cả những gì bị quên lãng để rồi tốt nghiệp bác sĩ với hạng danh dự ở Trường Y Khoa Baylor ở Texas. Những người Á Đông, và đặc biệt là những người Việt Nam, thì thường là hâm mộ thể thao, nhưng ít ai có đủ tầm vóc và sức khỏe để chơi môn bóng bầu dục. Nhưng nay chúng ta đã có anh Nguyễn Đạt, khi còn là sinh viên ở Texas A & M University đã chiếm được giải Lombardi vào năm 1998 là giải hàng năm dành cho người phòng vệ tiền đạo xuất sắc nhất trên toàn quốc. Sau đó anh còn được lựa chọn để làm cầu thủ nhà nghề cho Hội Bóng Dallas. Vào cuối thiên niên kỷ vừa qua, tất cả những người Việt Nam, dù ở trên đất nước hay đang sinh sống ở hải ngoại, ai cũng cảm thấy hãnh diện về sự thành công vẻ vang của nhà đạo diễn phim ảnh trẻ tuổi Tony Bùi, người đã đoạt ba giải thưởng quan trọng là Grand Jury Prize, Audience Award và Cinematography Award với cuốn phim Three Seasons. Sau cùng, một chuyện cũng nên nhắc lại là vào ngày 21 tháng Bảy năm 1999, đài phát thanh National Public Radio, là một đài phát thanh toàn quốc với những lời phẩm bình văn chương và chính trị rất được lắng nghe, đã có một buổi phát thanh đặc biệt trong chương trình ''Talk of the Nation'' để kỷ niệm sinh nhật bách niên của ký gỉả và văn hào Ernest Hemingway, một trong những người đã mang giải Nobel về văn chương cho Hoa Kỳ. Thường ngày là có hàng triệu người theo dõi chương trình này, nhưng ít ai có thể nghĩ rằng một học giả trẻ tuổi nguời Việt đã góp phần vào việc viết bài khảo luận và trong buổi phát thanh anh cũng đã giả giọng nói của Hemingway trong màn đối thoại giữa tác giả nổi tiếng này và một nữ văn sĩ người Pháp ở Paris vào những năm cuối hai mươi.

Ngoài những sự việc kể trên, còn nhiều tin tức thành công khác của giới trẻ Việt Nam, thường hay được loan tin sâu rộng trong cộng đồng chúng ta ở hải ngoại, nhưng lại ít khi đuợc chú ý và quảng bá tới quần chúng Mỹ. Tuy vậy có một số học giả mà tôi quen biết, là những người thực tâm ngưỡng mộ nền văn hoá Việt Nam và có những chương trình khảo cứu về sự hội nhập của người mình vào miền đất mới, đã viết một số bài trung thực, nêu lên những thành công đáng khen ngợi của giới trẻ. Trong nguyệt san Scientific American, số tháng Hai năm 1992, có một bài viết của các tiến sĩ Caplan, Choy và Whitmore thuộc đại học Michigan về sự thành công ở học đường của các học sinh đến từ Đông Dương. Bài viết dựa trên những cuộc phỏng vấn và sưu tầm tài liệu, hầu hết là ở những cộng đồng lớn của người Việt ở Seattle, San Jose, Orange County và Houston và các tác giả đã quy định rằng sự học hành tấn tới của các em là nhờ ở sự liên hệ gia đình, phụ mẫu đã có nhiều hy sinh, đã khuyến khích con em và đã tạo nên một không khí đầm ấm, hạnh phúc dưới mái nhà, rất thuận lợi cho sự mở mang trí tuệ của con cái. Gia đình chúng tôi cũng có kinh nghiệm về điều này. Để nuôi dưỡng bốn đứa con trở nên những người hữu dụng, chúng tôi cũng đã phải gánh chịu nhiều khó khăn, khổ sở, nhất là trong những năm đầu di cư, khi mà ở chung quanh không có ai là họ hàng thân thích, và thiếu bóng cả những người đồng hương. Chúng tôi tới Mỹ từ sớm vào năm 1962, nhờ ở một học bổng đặc biệt của Không Quân Hoa Kỳ (USAF).. Thoạt mới nghe thì ai cũng nghĩ rằng sang trước được ít lâu cũng giúp thêm cho tôi được phần nào trong sự nghiệp. Thật ra thì không hẳn như vậy. Trong những năm đầu tiên bước chân vào ngành giáo dục và nghiên cứu khoa học, giữa những bạn đồng nghiệp, tôi thật cảm thấy cô đơn và lạc lõng. Đi tới đâu tôi cũng trở thành giáo sư Việt Nam đầu tiên được tuyển lựa, và tự mình phải chứng tỏ khả năng của những người con Rồng cháu Tiên, lúc đó còn xa lạ đối với xứ này. Nhiều lúc tôi nghĩ đến câu ''one is a lonely number'', là tựa đề của một cuốn truyện và cũng là tên của một cuốn phim, với tôi lúc đó có nghiã là số một là một số cô đơn.

Tôi xin kể lại câu chuyện từ đầu. Vào trước năm tôi xin nghỉ hưu, tuần báo US News and World Report, trong số đặc biệt phát hành hàng năm để xếp hạng những trường đại học Hoa Kỳ, theo từng cỡ, lớn hay nhỏ, và từng ngành chuyên môn, thì Trường Kỹ Thuật (College of Engineering) ở Đại Học Michigan được xếp thứ ba, sau trường MIT và Đại Học Stanford ở California. Nếu kể theo chuyên khoa thì về môn Kỹ Thuật Hàng Không và Không Gian (Aerospace Engineering) , phân khoa này ở Michigan được xếp thứ tư, sau những trường MIT, California Institute of Technology, gọi tắt là Caltech, và Đại Học Stanford. Vì tôi đã dậy ở Michigan được ba mươi năm, và được bổ nhiệm làm giáo sư thực thụ từ năm 1972, nên tất nhiên là tôi đã có công lao đóng góp xứng đáng vào thành tích được xếp hạng cao của trường. Chính ở Đại Học Michigan là nơi tôi được một lần tặng giải xuất sắc về giáo dục và hai lần được tặng giải xuất sắc về khảo cứu cũng đã phải công nhận là ở Phân Khoa Hàng Không và Không Gian tôi là người có kỷ lục đã đào tạo được nhiều tiến sĩ, cả nam lẫn nữ. Vào đầu năm 1962, khi tôi chuẩn bị giấy tờ để gửi xin nhập học vào các đại học Hoa Kỳ, tôi đã đề theo thứ tự ưu tiên là MIT rồi sau đến Đại Học Stanford. Trong trường hợp tôi phải theo học một trường đại học công lập, thì tôi đề ưu tiên là Đại Học California ở Berkeley, rồi sau đến Đại Học Michigan ỏ Ann Arbor. Đó là những trường đại học có uy tín ở Á châu là những trường đại học giỏi đã đào tạo được nhiều chuyên gia nổi tiếng, và trong ban giáo sư cùng giữa những cựu sinh viên có nhiều người được giải Nobel về khoa học. Nhưng tôi chưa kịp gửi đơn đi thì đã được tin từ cơ quan cấp phát học bổng ở Hoa Kỳ là họ đã chọn sẵn cho tôi để nhập học, hoặc là trường Đại Học Arizona ở Tucson, hay là trường Đại Học Colorado ở Boulder. Những trường này là những trường công lập vào hạng khá, nhưng không được xếp hạng vào 25 trường đứng đầu bảng. Vì tôi ưa thích miền núi non nên đã chọn Colorado để tới học. Tuần lễ đầu tiên ở trường, khi được hướng dẫn đi ghi tên và chọn lớp thì tôi khám phá ra được rằng trường học này, và ngay cả toàn tiểu bang Colorado chăng nữa, thì chưa bao giờ đã cấp phát văn bằng tiến sĩ về môn Khoa Học Hàng Không và Không Gian, vì môn này lúc đó còn mới mẻ. Tuy vậy tôi vẫn chuyên tâm vào học và vào ngày 14 tháng Chạp năm 1964, tức là sau hai năm và bốn tháng kể từ ngày tôi tới Colorado, tên tôi được ghi vào lịch sử của tiểu bang như là người đầu tiên được cấp văn bằng tiến sĩ về môn Hàng Không và Không Gian. Năm sau đó tôi cũng được mời làm giảng sư tại Đại Học California ở Berkeley, nhưng tôi từ chối để ở lại trong ban giảng huấn của Đại Học Colorado. Tuy vậy vào năm 1967 tôi cũng đã tới Berkeley làm giáo sư thỉnh giảng để dậy một khóa học. Và đúng mười năm, sau khi tôi được nhắc khéo là vì tôi còn bỡ ngỡ với nền học vấn ở Hoa Kỳ nên nếu đến theo học ngay ở Michigan thì thật là một cao vọng, tôi được thăng chức giáo sư thực thụ ở trường này.

Trong những năm qua, khi tiếp xúc với giới trẻ ở khắp năm châu, tôi thường được hỏi là tôi đã cộng tác thế nào với Nha Quản Trị Hàng Không và Không Gian Quốc Gia (National Aeronautics and Space Administration, gọi tắt là NASA ), và trong quãng đời làm công tác khoa học, sáng tác nào đã làm tôi thích thú nhất. Trong giòng họ tôi, nguyên quán ở Nam Định, có rất ít người ra làm quan dù rằng theo trong gia phả, trong các tổ tiên đã có những người đỗ đại khoa, nhưng có xuất chính rồi ít lâu sau cũng cáo quan về nhà dậy học. Cũng vì vậy mà từ khi ra trường tôi đã đi theo những bước chân của các bậc tiền nhân mà chọn con đường giáo dục. Trải hương thơm theo gió, tôi muốn hoàn trả lại bốn phương những gì tôi đã thu lượm được trong cuộc đời tầm học, và như thế dậy học và viết những tài liệu khảo cứu là con đường hữu hiệu nhất để thực hiện điều này. Nhưng thực sự ra, để trở thành giáo sư đại học ở đất nước này lại không phải dễ dàng như khi chúng ta còn ở trên quê hương mà theo thông lệ sự tuyển lựa chỉ căn cứ vào một văn bằng tiến sĩ là đủ. Từ nhiều năm nay, chúng tôi là những người trong ngành giáo dục ở đủ mọi bộ môn ở các đại học Bắc Mỹ đã lập ra một hội thân hữu gọi là Vietnamese North-American University Professors, viết tắt là VNAUP, để trao đổi tin tức qua máy điện tử và họp với nhau mỗi năm một lần, nhưng tựu trung chúng tôi tuy giầu thiện chí, nhưng thực lực vẫn còn nghèo nàn, thưa thớt. Danh sách hội viên, nhất là những đồng nghiệp trẻ, vẫn chưa được dài như chúng tôi mong muốn. Được chọn làm giáo sư ở một trường đại học tại Hoa Kỳ hay Gia Nã Đại, đặc biệt là ở những đại học có uy tín, trước hết phải qua một cuộc tuyển lựa rất gay go, khởi đầu với vào khoảng trên dưới một trăm ứng sinh, để rồi chọn ra một người, qua nhiều giai đoạn từ giới thiệu đến tham khảo, phỏng vấn, và khi được vào chung kết, trong một danh sách từ 3 đến 5 người, ứng viên phải đến làm một bài thuyết trình để toàn thể các giáo sư và sinh viên trong phân khoa có dịp được thẩm định. Lúc được bổ nhiệm làm giảng sư, với những người mới ra trường, thì theo thông lệ chỉ có hạn kỳ là ba năm, rồi sau đó nếu công việc dậy học và khảo cứu được tiến triển điều hòa thì được triển hạn thêm ba năm nữa. Sau thời gian sáu năm thử thách ấy, những giáo sư thâm niên hơn mới họp bàn để duyệt xét thành tích của người bạn đồng nghiệp trước khi đề nghị lên hội đồng khoa xin lưu nhiệm vĩnh viễn. Dù đã qua được sự gạn lọc này cũng không chắc chắn là được nhận ngay vào chính ngạch vì tôi đã nhìn thấy những trường hợp đề nghị này cho một vài giáo sư Hoa Kỳ được gửi đi nhưng không được hội đồng khoa chấp thuận. Chính những trở ngại đó đã làm cho một số những tài năng trẻ Việt Nam chọn đi những ngành khác đỡ chông gai hơn. Trong trường hợp của tôi, một khi đã quyết tâm theo ngành giáo đục và khảo cứu, tôi cũng phải hành xử theo như các bạn đồng nghiệp khác để được ở cùng một bình diện với họ. Ở các đại học có một thành ngữ mà ai cũng nhớ là ''Publish or Perish'' có nghiã là không công bố được trên sách báo chuyên môn những sáng tác hay những kết quả khảo cứu của mình thì sẽ bại liệt. Tuy theo bề ngoài mà nói thì khi cứu xét sự lưu nhiệm các giáo sư chưa vào chính ngạch, ở đại học nào cũng công bố trên giấy tờ thứ tự ưu tiên là giảng huấn rồi mới đến khảo cứu, hay sáng tác cho những giáo sư theo khoa học nhân văn, và sau cùng sẽ đến sự phụ giúp công việc hành chánh trong đại học, như dự các buổi họp, lãnh những nhiệm vụ được giao phó hay tự tình nguyện, nhưng trên thực tế các giáo sư được đánh giá qua những kết quả khảo cứu, được thể hiện bằng những bài đăng trên những báo chuyên khoa, những cuốn sách đã xuất bản, và những lần được mời đi thuyết trình ở các đại học trong và ngoài nước hay ở những hội nghị tầm vóc quốc gia và quốc tế. Tất cả những điều này liên hệ với nhau. Muốn làm khảo cứu, tìm ra những điều mới lạ, ở một thời đại văn minh tuyệt đỉnh, ai cũng cần có một ngân khoản, thường thì do một cơ quan quốc gia, hay một xí nghiệp đài thọ, và muốn xin được những tài trợ này giáo sư phải sẵn có một uy tín trong lãnh vực của mình, nghiã là đã phải có một số những bài khảo luận đăng trên sách báo, và muốn viết được những bài này lại cần phải có những phuơng tiện để làm khảo cứu nghiã là phải có ngân sách để quản lý. Trong cái vòng lẩn quẩn đó, nhiều người không tìm ra đầu mối bắt đầu từ đâu, và đã phải giải nghệ, nghiã là đi tìm cách tiến thân theo con đường khác. Tôi cũng đã trải qua những năm thử thách đó trong xã hội rất mực cạnh tranh ở Hoa Kỳ, và trong phần vụ nghiên cứu cũng đã xin được những ngân khoản khảo cứu của các cơ quan chính phủ và kỹ nghệ tư. Vì tôi làm việc về lý thuyết nên đã dùng những nguồn tài trợ này làm học bổng cho những nghiên cứu sinh của tôi, giúp cho họ qua được khoa kỳ. Những kết quả khảo cứu, hoặc được đăng trên các nguyệt san khoa học và kỹ thuật như những bài khảo luận, hay dưới hình thức những bản báo cáo chuyên ngành, đều được phổ biến qua các thư viện chuyên môn trên toàn thế giới. Một số những báo cáo chuyên môn tôi viết ra, hoặc đứng tên một mình, hoặc làm chung với các bạn đồng nghiệp hay các môn sinh, đã được Không Quân Hoa Kỳ (USAF), hay NASA là những cơ quan đã trợ cấp ngân khoản, in ra như là nhũng tài liệu chuyên môn (technical report). Những tài liệu này đều có thể tìm được ở các thư viện, hay gửi mua ở Clearinghouse for Federal Scientific and Technical Information địa chỉ gửi về là Springfield, Virginia 22151. Trong niên học 1974-1975 tôi được mời sang Pháp để làm khảo cứu ở Office National d'Etudes et de Recherches Aérospatiales gọi tắt là ONERA, ở Châtillon là vùng ngoại ô của Paris, và làm giáo sư thăm viếng ở Trường Quốc Gia Cao Đẳng Hàng Không và Không Gian Pháp, thường được các sinh viên các Truờng Lớn ở Pháp ưu ái gọi tắt là SupAéro. Trong thời gian này tôi cũng viết mấy bài về toán học và qũy đạo tối ưu để đăng trên nguyệt san khoa học La Recherche Aérospatiale của ONERA, và sau này có hai bài viết chung với những khoa học gia người Pháp lại được chuyển dịch sang Anh ngữ và đăng như là báo cáo kỹ thuật của Cơ Quan Không Gian Âu Châu (European Space Agency). Một vài bài báo tôi viết với nghiên cứu sinh, đăng trên báo chuyên môn ở Hoa Kỳ cũng đã được dịch sang Nga ngữ và đăng lại ở Liên Sô. Sau này, khi chế độ cộng sản sụp đổ ở Đông Âu, sự trao đổi văn hoá và khoa học được cởi mở, tôi cũng đã viết chung bài với một viện sĩ khoa học người Nga và bài nào cũng được in theo hai văn bản ở hai trời Âu và Mỹ. Nhờ những hoạt động như thế, cùng với ba cuốn sách giáo khoa tôi đã viết và được dùng ở các nơi trên thế giới, mà những đóng góp của tôi vào khoa học không gian được chú ý ở Âu châu. Một báo cáo kỹ thuật đặc biệt do tôi ký tên được ấn hành bởi North Atlantic Treaty Organization thường được biết đến như là Liên Minh NATO vào năm 1990. Tổ chức này, tuy là liên minh chính trị và quân sự Bắc Đại Tây Dương, nhưng cũng có một ủy ban cố vấn kỹ thuật gọi là Advisory Group for Aeronautical Recherche and Development, viết tắt là AGARD, hàng năm vẫn tổ chức những khoá hội thảo. Tại một kỳ hội luận về Flight Mechanics of Space Flight, vào những ngày 13-16 tháng Một năm 1989 ở Luxembourg tại Âu châu, để những chuyên gia thuộc các nước trong liên minh trình bầy những dự án đóng góp của nước họ vào chương trình bay vào không gian, tôi được mời để làm tổng thư ký viết báo cáo kỹ thuật của buổi họp. Sự việc này cũng là một vinh dự đặc biệt cho tôi, vì giấy mời được sự hội ý và thoả thuận của hai vị đồng chủ tịch buổi hội luận, một vị người Pháp và một vị người Mỹ. Bản báo cáo của tôi, định phẩm hơn ba mươi bài thuyết trình kỹ thuật của mười bốn quốc gia trong ba ngày hội luận ở Luxembourg, được xếp loại chuyên môn theo thủ tục của AGARD như là một Technical Evaluation Report (TER), đã được ấn hành năm sau đó sau khi đã được hai vị đồng chủ tịch duyệt y. Tuy theo khế ước ký kết cho chuyến đi này tôi còn được ba tháng sau hội nghị để viết bài tổng kết nhưng theo lời yêu cầu của vị đồng chủ tịch người Pháp, ở buổi kết thúc tôi được mời trình bầy trong vòng nửa giờ những nhận xét cuả tôi về những cao điểm của cuộc hội luận. Khi giới thiệu tôi ông chủ tịch hội nghị cũng dùng những lời lẽ thật trịnh trọng.

Ngoài những ngân khoản trợ cấp khảo cứu từ NASA, gửi thẳng đến đại học để nơi này thiết lập ngân sách cho tôi điều hành, có một lần trong một chương trình dành cho các giáo sư đại học vào mùa hè năm 1982 tôi làm việc trực tiếp trong ba tháng tại Jet Propulsion Laboratory, viết tắt là JPL, là một cơ sở quan trọng phụ trách những chương trình thám hiểm những hành tinh trong Thái Dương Hệ của Hoa Kỳ, nhưng lại trực thuộc Đại Học Caltech ở Pasadena. Ở nơi đây tôi cũng gặp lại một số cựu sinh viên và sau này cũng giới thiệu được một số sinh viên mới tốt nghiệp tới làm việc. Một trong những sinh viên tôi đã đào tạo, hiện nay vẫn làm việc tại JPL, là tiến sĩ Jennie R. Johannessen, một nữ chuyên gia rất xuất sắc đã là người quản nhiệm nhóm tính qũy đạo cho vệ tinh nhân tạo Galileo bay lên thám hiểm Mộc Tinh. Trong số vào khoảng ba mươi tiến sĩ đã được tôi hướng dẫn tại Đại Học Colorado và Đại Học Michigan thì có chừng một phần ba là ở nước ngoài như Đại Hàn, Nhật Bản, Hoa Lục, Đài Loan, Ba Tây và Pháp, còn đều là ở Hoa Kỳ, và hầu hết đã đạt được những địa vị khả quan trong xã hội. Giữa các môn sinh, họ vẫn liên lạc với nhau chặt chẽ, coi người thầy cũ như là môt tụ điểm.

Trở lại câu hỏi là tôi thấy thích thú nhất về sáng tác nào thì thật khó trả lời vì trong khi làm về khoa học tôi để chen vào một chút văn nghệ tính, và giống như một họa sĩ vẽ tranh, tôi không hay sao lại một tác phẩm nào đã thực hiện trước đây. Vì vậy khi đọc lại bất kỳ bài viết nào đã đăng, mỗi bài có một vẻ đẹp khác nhau làm tôi vẫn thấy hào hứng như lần đầu tiên tìm ra được phương pháp giải bài toán này còn ở trong vòng bí hiểm. Tháng Tám năm 1994, tại hội nghị thường niên về cơ học không gian của American Institute of Aeronautics and Astronautics họp ở Scottsdale, là một nơi nghỉ mát danh tiếng thuộc tiểu bang Arizona, ở bữa tiệc chính có vào khoảng một ngàn kỹ sư và khoa học gia danh tiếng tham dự, tôi được mời lĩnh giải Mechanics and Control of Flight Award cho năm ấy. Ngoài bằng tưởng lục và một nút tròn để đeo vào ve áo, tôi được ông Chủ Tịch đương nhiệm của Viện choàng vào cổ tấm huy chương vàng danh dự. Ở một mặt tấm huy chương có khắc hình chiếc phi cơ cánh đôi của hai anh em Wilbur và Orville Wright chế tạo và vết chân đầu tiên của phi hành gia Neil Armstrong in trên mặt trăng, những hình vẽ biểu dương cho sự phát triển khoa học hàng không và không gian Hoa Kỳ trong thế kỷ XX. Ở mặt bên kia có khắc tên tôi và hàng chữ tưởng thưởng ''For outstanding contributions to the mathematical theory of optimal control, applied to the flight mechanics of aerospace vehicles in the atmosphere and in space''. Được tặng giải này trước hết phải có những đồng nghiệp đề nghị, và sau đó được một uỷ ban chọn lựa và vì mỗi năm chỉ chọn một người nên cái hy vọng nhận được huy chương này thật không bao giờ đến vói ý tưởng tôi. Ở xã hội này, mỗi ai nhận được huy chương cao nhất ở một chuyên môn nào thì thường là được choàng vào cổ lần đầu tiên ở trên bục danh dự. Sau đó nếu bộ môn được nhiều người hâm mộ, như thường thấy ở các môn thể thao, thì lần thứ hai lực sĩ tự choàng huy chương vào cổ là để chụp tấm hình bán cho báo chí hay để in trên những hộp ngũ cốc ăn sáng. Danh dự nhận được, nay đem ra thương mại hoá. Dĩ nhiên là tấm huy chương tôi nhận được không có giá trị thương mại, mà chỉ hoàn toàn về tinh thần. Nhưng tôi nghĩ sẽ có một ngày tôi choàng lại vào cổ để tới dự liên hoan với hàng trăm, hàng ngàn tuổi trẻ Việt ly hương khác, lúc đó cũng đạt được những thành tích hơn người ở mọi ngành và nhất là được quốc gia này công nhận. Như ở trên tôi đã nêu lên nhiều gương sáng thành công của dân tộc chúng ta là những con Rồng cháu Tiên nhưng tôi vẫn còn thắc mắc trong lòng khi thấy cộng đồng người Việt trên đất này chưa có tiếng nói được lắng nghe trên bình diện quốc gia. Chỉ khi nào lời nói của cộng đồng người Việt được chính quyền chú ý, trong hàng ngũ lãnh đạo công và tư trên giải đất này có những khuôn mặt gốc Lạc Hồng quen thuộc, thì lúc đó mới là mốc thời gian để chúng ta tưng bừng mở hội liên hoan. Để đạt được mục đích đó, chúng ta cần đến sự cố gắng thêm nữa và sự tiếp tay của các bạn trẻ. Đó là những điều tôi thường nhắc nhở các bạn trong những lần đi nói chuyện và giờ đây tôi rất vui mừng thấy xuất hiện những khuôn mặt trẻ trong hàng ngũ lãnh đạo cộng đồng.

Tuy không dậy nhiều kỹ sư gốc Việt nhưng tôi đã gặp rất nhiều chuyên gia trẻ thuộc thế hệ thứ hai của chúng ta đang làm trong các cơ quan chính phủ liên bang và tiểu bang và ở mọi ngành kỹ nghệ ở các nơi và tôi đã thật vui mừng khi thấy các bạn còn lưu tâm tới cội nguồn. Do sự vận động của các kỹ sư người Việt tại Lyndon B. Johnson Space Center, viết tắt là JSC, tại Houston ở Texas, trong tuần lễ vinh danh sự đóng góp của những người Mỹ gốc Á châu, vào ngày 8 tháng Chín năm 1989, ba khoa học gia gốc Việt đã được ghi tên vào Bảng Danh Nhân Mỹ Gốc Á (Asian Pacific American Hall of Fame) ở Trung Tâm Không Gian này. Theo tin đưa ra từ ban giám đốc, hình ảnh và thành tích họat động của phi hành gia không gian tiến sĩ Eugene Trinh thuộc JPL, giáo sư Nguyễn Hữu Xương thuộc Đại Học California ở San Diego và giáo sư Nguyễn Xuân Vinh thuộc Đại Học Michigan, đã được trình bầy tại Trung Tâm Khách Thăm Viếng trong một tuần lễ và sau đó những tấm bích chương đưọc tàng trữ làm tài liệu tại thư viện của JSC. Không cứ riêng với những người gốc Việt ở Hoa Kỳ, được coi như là sắc tộc mới thành lập thế hệ đầu tiên di cư, những người gốc Á châu khác như Hoa, Nhật, Ấn, Phi, vân vân. .. dù đã đến lập nghiệp ở xứ này từ lâu đời, họ cũng phải đợi đến cuối thế kỷ vừa qua mới vận động thành công để Quốc Hội Hoa Kỳ ra sắc luật dành tháng Năm của mỗi năm là tháng để vinh danh những người dân Mỹ gốc Á, cũng như tháng Hai đã được chính thức công nhận từ lâu để vinh danh những người da đen. Từ mấy năm nay, tuy ở các công sở liên bang hay tiểu bang, và ở một số hãng kỹ nghệ lớn vẫn có những ngày đặc biệt trong tháng Năm dành để vinh danh sự đóng góp của những người gốc Á châu nhưng sắc tộc Việt Nam vẫn chưa nổi bật lên vì nói chung địa vị trong xã hội của mình vẫn còn khiêm nhường. Ngày 7 tháng Năm năm 1990 là một ngày đáng ghi nhớ cho những người Mỹ gốc Á vì trong một buổi lễ làm ở Vườn Hồng ở toà Bạch Ốc, Tổng Thống George Bush đã ký quyết định từ nay tháng Năm được chính thức là ''Asian Pacific American Heritage Month'', nghĩa là tháng Truyền Thống của những người gốc Á châu và miền Thái Bình Dương. Cùng với nhà cách mạng và hoạt động chính trị là bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn tôi có may mắn được mời dự buổi lễ lịch sử này. Ngoài hai chúng tôi còn ba người đồng hương khác, tổng cộng là 5 người, so với tổng số khách gốc Á châu được mời dự lễ giới hạn là 200 người thì thật là ít ỏi. Tính theo sự kiểm tra dân số vào năm ấy, cộng đồng người Việt có ước lượng vào khoảng gần một triệu người thì chúng ta phải có chừng 20 người được mời dự buổi lễ mới phải. Sau buổi lễ còn có phần thuyết trình của một vài nhân vật cao cấp trong chính phủ, và trong khi chờ đợi, tôi đã gặp và nói chuyện và cùng một lúc nhận ra được một số danh nhân Á châu hiện diện. Có những người như Trung Tướng William S Chen, Cục Trưởng Cục Quân Y Không Quân, Đô Đốc Ming E Chang, Tư Lệnh Hạm Đội Thái Bình Dương, giáo sư Đại Học Chicago Subrahmanyan Chandrasekhar, khôi nguyên giải Nobel vật lý học mà tên tuổi đã được lưu vào hậu thế khi mới đây, kính viễn vọng thường trực trên không gian, sau khi phóng vào vũ trụ, đã được đặt tên là Chandra, có những người như nhạc sĩ đại hồ cầm Yo-Yo Ma, nữ minh tinh màn ảnh Nancy Kwan, dân biểu Norman Y Mineta, sau này thành bộ trưởng và tên ông được đặt cho phi trường quốc tế ở San Jose, bang California, và còn nhiều người khác tên tuổi và thành tích sáng chói, làm tôi thấy phải nhận rằng trong thành phần thiểu số người Mỹ gốc Á vào thời điểm ấy, tức là mới mười lăm năm sau ngày ly hương và di cư sang Hoa Kỳ, sự đóng góp của người mình vẫn chưa nổi bật. Từ ngày đó, trong những dịp gặp gỡ và nói chuyện với học sinh, sinh viên và thanh niên Việt ở khắp mọi nơi tôi dã khuyến khích các bạn không nên tự mãn về thành tích đã đạt được của mình mà phải luôn luôn học hỏi, cố gắng không ngừng. Các chuyên gia Việt ở mọi ngành, như cũng đã ý thức được sự hợp đoàn để có sự hiện diện đặc thù của con cháu Lạc Long trong liên minh Á châu, nên đã tranh đấu để dành chỗ cho người mình đến làm diễn giả ở những ngày lễ truyền thống hàng năm được tổ chức vào tháng Năm như đã được quy định bởi sự ký kết của Tổng Thống Hoa Kỳ. Riêng tôi đã được mời tới làm diễn giả danh dự ngày lễ năm 1994 tổ chức tại Ủy Ban Điều Hợp Nguyên Tử Lực Hoa Kỳ tại đại bản doanh ở Maryland và ngày lễ năm 2001 của Hãng DuPont tổ chức ở Đại Học Delaware. Những lần mời này đều do đề nghị của chuyên gia người Việt lên ban tổ chức vì thật ra công việc làm của tôi không liên hệ gì đến nguyên tử lực hay kỹ nghệ hoá chất để được giới lãnh đạo của các cơ quan nói trên biết tới. Trong những lần nói chuyện của tôi mà nếu phần lớn thính giả là người Hoa Kỳ thì tôi thường nhắc đến lời nói cuả mục sư tiến sĩ Martin Luther King Jr. rằng: ''Everybody can be great because everybody can serve'' để nhấn vào điểm là dù cho sự đóng góp cuả cộng đồng người Việt còn ít ỏi nhưng vì chúng ta có giầu thiện chí nên cũng có thể coi như là đáng kể.

Từ mấy năm nay tôi chỉ làm cố vấn về kỹ thuật cho mấy chương trình khảo cứu và nhận lời dậy những khoá học ngắn cho một vài cơ quan ở nước ngoài. Vì đã bớt được áp lực phải đăng bài khảo cứu, tôi có nhiều thì giờ hơn để giúp cho mấy Hội Khuyến Học ở một vài nơi mà tôi đã tham gia như là một cố vấn. Chúng ta đã sống ly hương được quá một phần tư thế kỷ, và thế hệ con cháu đời thứ hai, và tiếp nối đã bắt đầu nhập cuộc. Là những người đi tiên phong, cùng với nhiệm vụ mở đường, chúng ta cũng cần hướng dẫn cho thế hệ đi sau theo cho đúng hướng và không có gì quan trọng hơn là làm cho con cháu nhớ đến cội nguồn, giữ cho tiếng Việt được bảo tồn đời đời ở hải ngoại. Để đóng góp vào sáng tác văn học Việt ở một xứ văn minh nhất trên thế giới, và để cung cấp thêm tài liệu đọc tiếng nước nhà cho các bạn trẻ, tôi đã soạn xong một cuốn sách đề là ''Vui Đời Toán Học'', với mục đích quảng bá đến mọi người rằng toán học không phải là một môn học khô khan mà lại cần thiết cho đời sống của con người, và tôi đã tìm thấy nguồn vui trong môn học này trong một thời gian dài hơn một nửa thế kỷ. Bài viết này là bài mở đầu cho cuốn sách. Cùng một lúc với mấy dòng chữ kể sơ qua cuộc đời tầm học của tôi, tôi đã nhắc tới những thành tích đóng góp vào sự mở mang phồn thịnh ở xứ này của những người đồng hương với nỗi vui mừng rằng cộng đồng Việt ở hải ngoại đang ở trên đà tiến triển mạnh mẽ.

Rồi đây, trải hương thơm theo gió, chúng ta sẽ đưa đến khắp nơi trên giải đất này những vẻ đẹp trong truyền thống văn hoá của quê hương.

Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Tin Cộng Đồng

Post by uncle_vinh »

Con sáo sang sông...

Giao Chỉ, San Jose. , Jan 11, 2009
“Ai đưa con sáo sang sông, để sáo xổ lồng, con sáo bay đi...”

Image
Cô giáo miệt vườn Mỹ Tho trở thành nghị viên miền dưới của Úc Châu. Người thuyền nhân Việt Nam 1978 hai lần trở về biển Ðông tảo mộ đồng hương trên hoang đảo. Phụ nữ tỵ nạn, 22 năm định cư chưa biết lái xe, đã trở thành nghị viên thành phố duyên hải miền Tây Úc.

Quí vị vui lòng mở máy điện toán đi tìm City of Wanneroo Australia sẽ thấy ngay một thị xã duyên hải miền tây nam của Châu Úc. Ðây là thành phố phát triển rất nhanh với 134 ngàn dân, đa số là người Úc gốc Âu châu chung sống hiền hòa với trên 40 sắc dân thiểu số, mỗi nhóm có từ vài trăm đến vài ngàn người. Cũng trong số vài ngàn đó có nhiều người Việt đã vượt biển đến Úc trong 20 năm, suốt từ 1975 đến 1995. Tin tức cộng đồng thường nói đến người Việt tại Sydney, Melbourne hay Canberra tập trung miền duyên hải phía Ðông Úc. Từ Sydney mà đi sang miền Tây Úc phải vượt qua 3 ngàn 500 cây số đường chim bay. Nếu đi đường bộ sẽ là cuộc hành trình hết sức gian nan hàng tuần lễ theo quốc lộ số 1 chạy ven biển miền cực Nam của Úc Châu. Vì thị xã Wanneroo xa xôi hẻo lánh như vậy nên khi có người bạn từ Úc qua, ít có khi nào gặp người từ miền Tây Úc.

Ðầu năm nay, Viện bảo tàng Việt Nam San Jose, có người khách lạ đến thăm. Anh bạn trẻ Trần Ðông, giám đốc Archive of Vietnamese Boat People gửi thư trước giới thiệu cô Trương Nguyệt Ánh là đại diện của Văn khố Thuyền Nhân Việt Nam tại miền Tây Úc. Chúng tôi mở máy điện toán tìm hiểu về thành phố hẻo lánh của lục địa nhỏ bé ở miền dưới địa cầu xem hình ảnh ra sao. Xứ sở thanh bình, trời xanh biển rộng, thành phố rất hiền lành. Vào xem tòa thị xã tìm danh sách chính quyền thấy tên một nữ lưu Việt Nam, rõ ràng là bà nghị viên của khu vực phía Nam thành phố có tên Nguyet-Anh Trương, mới được bầu vào chức vụ tháng 10 năm 2007. Bao năm qua, đã biết rằng cuộc đời của mỗi người Việt lưu vong đều là một câu chuyện. Nhưng chuyện của cô Nguyệt- Ánh miền Tây Úc này đúng là chuyện con sáo sang sông...

Trương Nguyệt Ánh là cô gái Mỹ Tho, ngồi trên lầu hai của viện Bảo tàng Thuyền Nhân ở San Jose vào một buổi sáng mùa đông, kể chuyện đời mình.

"... Anh chị biết không, nhà em gần nhà bà tổng thống Thiệu đấy. Em sinh năm 1949. Thời chinh chiến, trai 20 tuổi đi quân đội, gái đi dạy học hay theo nghề điều dưỡng. Em tốt nghiệp sư phạm Mỹ Tho. Rồi lấy chồng trung úy Biệt động quân. Ðầu tiên em dạy tiểu học nơi xa, sau về dậy tại trường Thân Cửu Nghĩa quận Bến Tranh. Chỗ này không có an ninh. Em còn nhớ khoảng tháng 4-1974, Việt Cộng vào trường giữa ban ngày, chẳng kêu ai, chỉ kêu mình em lên họp với hiệu trưởng. Trong lớp em có sơn hình cờ vàng trên tường và dán hình dinh Ðộc Lập cắt ra từ phụ bản lịch của tờ báo. Mấy tên Việt Cộng dữ lắm, chính trị có, quân sự có, súng ống đầy đủ cả. Lên án mình em vì các lớp khác không vi phạm. Bắt phải tháo gỡ và chùi đi hết. Lúc đó em là cô giáo mới hơn 20 tuổi lại vừa có bầu. Chúng tôi ngắt lời hỏi rằng thế cô giáo có thi hành ngay không. Không, Nguyệt Ánh nói. Em về lớp chẳng làm gì cả. Sao cô gan vậy. Gan gì đâu. Em sợ muốn chết. Bỏ ngay lớp về Mỹ Tho trình diện ty tiểu học. Dứt khoát không xuống dậy Bến Tranh. Mấy ông đưa ai xuống thì đưa. Tôi có bầu, vợ sĩ quan biệt động quân, trở lại chỉ có chết."

Từ đó Nguyệt Ánh tiếp tục làm cô giáo cho đến 1975 thì chồng đi cải tạo, vợ vừa đứng lớp vừa bị theo dõi. Năm 1978, vì chồng chỉ có trung úy nên được về sớm và gia đình tìm cách vượt biển. Nguyệt Ánh kể rằng gia đình cô rất may mắn, hai vợ chồng, hai đứa con và 2 người cháu chỉ bị thất bại có một lần tháng 3-78. Lần thứ hai, tháng 5-78 đến được Mã Lai. Lần thứ nhất giông bão, thùng dầu rớt xuống biển. Cánh đàn ông say sóng nằm la liệt, chỉ còn mình cô giáo không biết tại sao lại không bị biển hành. Cô giáo đứng lên làm thuyền trưởng lái tàu quay về và thoát chết. Chuyến sau rủ nhau đi ba tàu nhỏ thành đoàn, đến Mã Lai bị kéo ra biển rồi phải đánh đắm tàu mới được nhận vào trại tỵ nạn. Gặp thời gian hết sức may mắn cuối tháng 6 năm 1978 là phái đoàn Úc nhận hết đưa về Tây Úc định cư cho đến ngày nay.

Qua miền đất mới chồng đi cắt cỏ, vợ tình nguyện đi giúp việc không lương cho trường tiểu học.Vừa làm vừa học, cô giáo siêng năng của miền Tiền giang dần dần được tuyển làm phụ giáo rồi trở thành cô giáo trông nom vườn trẻ. Năm 1992, Nguyệt Ánh chính thức đứng ra mở trường Mẫu giáo và trông trẻ. Cơ sở tiến bộ dần dần lên đến 3 lớp và 50 em nhỏ với 8 nhân viên làm việc.

"... Anh chị phải biết rằng ở chỗ của em là thành phố nhỏ, làm ăn như vậy là khá lắm rồi..."

Cô Nguyệt Ánh hăng hái kể lại. Làm việc với các em và phụ huynh là niềm vui và lý tưởng của ngành sư phạm. Nhưng không bao giờ có thể nghĩ rằng cô giáo bị Việt Cộng lên án năm 74 tại quận Bến Tranh mà bây giờ lại trở thành bà hiệu trưởng trường mẫu giáo tại Tây Úc, thành phố ven biển Wanneroo. Hỏi đến chuyện gia đình, Nguyệt Ánh buồn rầu cho biết, từ khi định cư tại Úc thì vợ chồng thêm được một cháu.

Cho đến năm 2004 thì ông xã chia tay. Anh đi đường anh, em đường em. Em thì vẫn ở một mình nuôi con, nhưng anh thì bay bướm đi theo tiếng gọi của cô tài tử ánh đèn sân khấu xa xưa rất vang bóng một thời. Cô Nguyệt Ánh lại tâm sự. Xin anh chị nghe em bày tỏ. Hơn hai mươi năm cố gắng làm ăn, nuôi con, tuy có giao thiệp nhưng toàn trong công việc học đường và nghề trông trẻ. Gặp gỡ các phụ huynh, nhưng em không biết những chuyện xã hội bên ngoài. Cho đến khi vợ chồng chia tay các con mới giúp mẹ mở chương mục ngân hàng rồi tập lái xe để liên lạc ra ngoài. Không ai tin được là làm chủ trường mà đến năm 2004 chưa biết lái xe. Ðường xá bên Úc thì đi lại thong thả, đâu có khó khăn như bên Cali. Nhờ mấy năm sau này, ông chồng bỏ đi, em có cuộc đời tự do khác với ngày xưa như chim nhốt trong lồng, không được phép đi đâu. Ðược tự do nên em có cơ hội đi với phái đoàn Văn khố Thuyền nhân theo chương trình Về bến Tự do tại biển Ðông. Ði tảo mộ thăm viếng 2 lần tại nghĩa trang trên các hoang đảo tỵ nạn ngày xưa. Phải trở về mới cảm thấy thật sự mình đã may mắn biết bao nhiêu.

Rồi cũng nhờ tiếp tục phát triển cơ sở trông trẻ, Nguyệt Ánh đã học được biết bao nhiêu nghề phụ, từ khóa dinh dưỡng thiếu nhi đến phương pháp nấu ăn cho vườn trẻ. Học về vệ sinh mẫu giáo, việc cấp cứu trẻ nhỏ và quan trọng hơn hết là giao tiếp với biết bao nhiêu là gia đình phụ huynh học sinh đủ các sắc dân. Nhân dịp được thành phố trao giải thưởng với bằng khen về Dinh dưỡng an toàn, cô giáo mới được chính quyền biết đến.Thực sự với khả năng của cô giáo miền quê Việt Nam, sinh ngữ Anh đâu có bao nhiêu, nhưng với tinh thần hết sức hăng hái và chịu đóng góp ý kiến, từ những năm trở thành bà mẹ độc thân, Nguyệt Ánh đã mở rộng việc giao thiệp trong xã hội và gặp gỡ giới công quyền địa phương.

Năm 2007 cơ hội rất đặc biệt mở ra như chuyện không ai ngờ được. Ông thị trưởng Wanneroo đi tìm một người sắc tộc thiểu số tiêu biểu để chuẩn bị đưa vào hội đồng nghị viên thành phố thay thế cho các vị hết nhiệm kỳ. Ông tìm gặp lại người phụ nữ Việt Nam đứng tuổi, nhưng hết sức hăng hái và lại được nhiều người biết đến. Chắc chắn Anh ngữ của Nguyệt Ánh không thế nào so sánh được với những người Úc địa phương. Lại cũng không thể so sánh được với những sinh viên trẻ trưởng thành tại Úc vừa tốt nghiệp. Luật lệ tại đây là muốn ứng cử không những phải nộp đơn mà còn phải trải qua một bài thi sơ khảo. Cô giáo Nguyệt Ánh nếu phải thi nói tiếng Úc đúng giọng London thì có thể gặp khó khăn, nhưng cô đã qua được kỳ thi viết. Sau cùng số phiếu tình cảm đã dồn cho bà mẹ trường mẫu giáo hết sức quen thuộc của khu vực miền Nam thành phố. Trong đó có cả phiếu cử tri 18 tuổi ngày xưa đã tốt nghiệp trường vườn trẻ của cô giáo Mỹ Tho.

Tháng 10 năm 2007, cô giáo đóng cửa trường để vào tòa thị chính làm lễ tuyên thệ nhận chức nghị viên. Cô giáo Tiền Giang mặc áo dài hai tà ghép, tay thêu kim tuyến chỉ vàng. Trên vai có khăn quàng màu xanh với hình quốc kỳ của Châu Úc. Rồi cứ như thế, cô xông ra làm việc nước. Hỏi rằng trong năm qua đã làm được những gì. Nguyệt Ánh nói rằng trước hết là dân trong khu vực của mình thì luôn luôn đáp ứng mau lẹ. Còn dân Việt thì bất cứ khu nào cũng gọi ngày đêm. Hiện nay cô là người Á Châu duy nhất được bầu vào chức vụ dân cử miền duyên hải Tây Úc. Không những riêng người Việt mà các sắc dân thiểu số đều gọi đến khi có việc yêu cầu. Dường như di dân có cảm tưởng gặp bà nghị Việt Nam mọi chuyện có vẻ dễ dàng và thông cảm. Nguyệt Ánh rất tin tưởng rằng cô sẽ tiếp tục gặp may mắn trong nhiệm kỳ tới. Biết đâu cô lại có thể trở thành thị trưởng trước khi về hưu.

Tại Hoa Kỳ và trên khắp thế giới, con em Việt Nam chúng ta với tuổi trẻ và tinh thần hiếu học có thể sớm trở thành những mẫu người thành công trên nhiều lãnh vực. Tuy nhiên là phụ nữ đã trưởng thành đến định cư trên quê hương mới với gia đình con cái, ngoài 50 tuổi thì gia đình đổ vỡ. Chưa hề mở chương mục ngân hàng riêng. Chưa biết lái xe. Tất cả như làm lại từ đầu và chỉ có một mình. Năm 2004 mới học lái xe. Anh ngữ mãi mãi vẫn còn âm hưởng Tiền Giang. Ca dao tục ngữ miền Nam vẫn còn thuộc nằm lòng. Vậy mà chỉ có vài năm kể từ khi con sáo xổ lồng, con sáo đã bay cao. Tranh cử có một kỳ vào ngay chức nghị viên. Dù chẳng danh vọng bằng ai, nhưng đi đâu cũng được giới thiệu lên tuyên bố vài lời nhân danh là người dân cử. Trong chỗ riêng tư, cô nghị viên Wanneroo thành thực khai rằng, trước sau cũng chỉ là cô giáo trường làng ở nhà quê lục tỉnh, nay qua Úc về chỗ khỉ ho cò gáy nên may mắn làm bà hội đồng, cũng không hơn hội đồng xã bên Việt Nam. Ðối với cộng đồng Việt Nam tại địa phương tuy không đông đảo như những nơi khác, nhưng cũng vừa đủ để xây dựng tình đồng hương với tinh thần quốc gia vững chắc. Ai cũng tin tưởng vào tấm lòng son sắt của cô giáo Mỹ Tho. Vốn là cô em thứ Chín trong gia đình có đến 6 người chiến sĩ cộng hòa, trong đó có 3 người hy sinh vì tổ quốc. Anh Sáu chết trận Bình Giả, anh Tư chết tại Long Ðịnh và sau cùng anh Tám chết tại Bà Rịa. Dù bất cứ ở phương trời nào thì em Chín cũng không bao giờ quên được sự hy sinh của các anh.

Trong câu chuyện cuối cùng, bèn hỏi rằng Nguyệt Ánh có làm gì đáng kể cho cộng đồng Việt tại Tây Úc. Cô nói ngay là em chuyên trị dẹp cờ đỏ sao vàng và treo cờ vàng sọc đỏ. Các thư viện, trường học, chỗ nào treo cờ theo sách vở là em dẹp hết.

Câu chuyện Việt Cộng vào ngôi trường tiểu học quận Bến Tranh tháng 4 năm 74 đã làm cô giáo Mỹ Tho rụng rời chân tay. 45 năm sau cô vẫn còn nhớ như ngày hôm qua. Bây giờ, con sáo đã sang sông, con sáo đã bay cao, nhưng mãi mãi con chim sáo của miền Cửu Long vẫn không quên lá cờ vàng, không quên anh Tư, anh Sáu, anh Tám thân yêu của cô đã chết trên quê hương Việt Nam và những thuyền nhân còn nằm lại ở biển Ðông.

Giao Chỉ, San Jose.
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Tin Cộng Đồng

Post by uncle_vinh »

Santa Ana: Tỉ Lệ Phiếu 7-0 Ủng Hộ Nghị Quyết Cờ Vàng

Việt Báo Thứ Tư, 2/4/2009, 12:00:00 AM

Image
Vui mừng vì nghị quyết cờ vàng thông qua ở Santa Ana.

Santa Ana (Cổ Ngưu) -- Vào lúc 6:30 chiều Thứ Hai ngày 2 tháng 2 năm 2009, trong phiên họp thường lệ của HĐTP Santa Ana, Nghị Quyết công nhận cờ vàng là biểu tượng của cộng đồng người Việt sinh sống tại Santa Ana đã được chấp thuận với tỷ số 7-0 một cách vinh quang.

Nghị viên Vincent Sarmiento đã dùng điều luật 411 của thành phố Santa Ana là bất cứ Nghị Viên nào đều có thể yêu cầu đưa vào nghị trình của phiên họp Hội Đồng Thành Phố Santa Ana một vấn đề nào đó, để yêu cầu được biểu quyết bởi HĐTP. Nếu sự yêu cầu này nhận được sự ủng hộ của đa số các nghị viên khác, thì vấn đề đó sẽ được đưa vào nghị trình để được cứu xét và biểu quyết bởi HĐTP.

Trong nghị trình của buổi họp này thì đề nghị công nhận Cờ Vàng sẽ được đưa vào để biểu quyết vào cuối buổi họp của HĐTP, nhưng với sự hiện diện đông đảo của đồng bào và rất nhiều cơ quan truyền thông và báo chí trong cộng đồng Việt Nam, và nhất là có nhiều vấn đề rất sôi nổi trong nghị trình của buổi họp này liên quan đến vấn đề cắt giảm 20% ngân sách và nhân viên của thành phố, nên đề tài Nghị Quyết Cờ Vàng được HĐTP-Santa Ana đưa vào phần đầu của buổi họp.

Mở đầu, Thị trưởng Miguel Pulido mời Nghị Viên tuyên bố lý do, và cho biết là Nghị Quyết Cờ Vàng được xin đưa vào nghị trình bởi Nghị Viên Vincent Sarmineto và được sự ủng hộ bởi Phó Thị Trưởng Claudia Alvarez và Nghị Viên Sal Tinajero. Sau đó ông mời Giám Sát Viên Janet Nguyễn và Nghị Viên Garden Grove Andrew Đổ lên phát biểu, hai vị này phát biểu sự ủng hộ mạnh mẽ cho sự công nhận của Nghị Quyết Cờ Vàng và yêu cần HĐTP Santa Ana hãy ủng hộ cho nguyện vọng của những cư dân Việt Nam tại Santa Ana. Kế tiếp Thị Trưởng Miguel Pulido cho biết là trên tay của ông hiện có 6 phiếu xin phát biểu, nhưng ông nghĩ rằng tất cả những người xin phát biểu đều là ủng hộ cho Nghị Quyết Cờ Vàng, nếu ai trong những người này không ủng hộ nghị quyết này thì xin mời lên phát biểu ý kiến chống đối của họ… không thấy có một ai lên tiếng. Kế tiếp Thị Trưởng Santa Ana Miguel Pulido đã yêu cầu nhường thời gian để hội đồng làm việc khác vì không có ai phát biểu chống lại nghị quyết.

Một vị đại diện của Dân biểu Jose Solorio tham dự buổi họp cũng được mời lên phát biểu. Đại diện của DB Solorio cho biết là bởi vì có phiên họp khẩn tại Sacramento nên DB Solorio không thể có mặt tại buổi họp này được và xin đọc thư của ông gởi đến HĐTP Santa Ana là, “Cám ơn HĐTP Santa Ana đã tiếp nối việc làm của ông và nguyên Phó Thị Trưởng Brett Franklin và Nghị Viên Mike Garcia đã bắc đầu từ năm 2003 là vinh danh sự đóng góp của cộng đồng người Việt cho thành phố Santa Ana, cho tiểu bang và đất nước này. Cộng đồng này gồm có những người đóng thuế, những thương gia, những lãnh đạo cộng đồng và những người tranh đấu cho sự tự do và dân chủ trên toàn cầu. Lá cờ Tự Do và Truyền Thống của những người Mỹ gốc Việt này là biểu tượng cho sự tranh đấu và vận động của họ cho nhân quyền và hòa bình tại đất nước này và tại quê hương của họ.

Vào lúc này thì phòng họp có thêm sự hiện diện của 4 vị Dân Cử người Việt gồm có Phó Thị Trưởng Westminster Tạ Đức Trí, Nghị Viên Westminster Andy Quách, Nghị Viên Westminster Diệp Miên Trường và Nghị Viên Garden Grove Dina Nguyễn. Nghị Viên Santa Ana Sal Tinajero ghi nhận có sự hiện diện của các vị Dân Cử gốc Việt và yêu cầu Thị Trưởng Pulido mời những người này lên phát biểu. Ngoài nghị viên Diệp Miên Trường đọc lá thư ngắn từ Dân Biểu Trần Thái Văn yêu cầu HĐTP Santa Ana ủng hộ Nghị Quyết Cờ Vàng, 3 Nghị viên Dina, Trí và Andy đã phát biểu ngắn gọn kêu gọi ủng hộ Nghị Quyết Cờ Vàng và nhắc nhở 2 thành phố Garden Grove và Westminster cũng như quận Cam và tiểu bang California đã thông qua Nghị Quyết tương tự. Ủy Viên Giáo Dục Westminster Sergio Contreras cũng có mặt để ủng hộ cộng đồng Việt Nam.

Nghị viên Vincent Sarmiento mở đầu phần phát biểu của các thành viên trong HĐTP Santa Ana là, “Đây là dịp Tết Kỷ Sửu và một số chúng ta có mặt trong cuộc diễn hành hôm Thứ Bảy vừa qua tại đại lộ Bolsa với rừng cờ vàng bay bên cạnh cờ Mỹ, điều này đã biểu lộ rõ ràng nguyện vọng của cộng đồng người Việt với hơn 30,000 người hiện sống trong thành phố Santa Ana. Tôi cũng là một người di dân như những người Việt Nam này, nên rất thông cảm cho những tâm tư của những người Việt, cũng như ông, cũng đều thấy tâm hồn mình rung động mỗi khi nhìn thấy lá cờ dấu yêu của quê hương tôi. Thành phố Santa Ana phải nên công nhận lá Cờ Vàng là biểu tượng của cộng đồng Việt Nam. Đây là một biểu tượng của tự do, dân chủ và truyền thống. Thành phố Santa Ana hãy ghi nhận những đóng góp của cộng đồng người Việt tại thành phố này và nên đáp ứng với tất cả những nguyện vọng chính đáng của người Việt. Vùng Little Saigon đã được khởi đầu từ thành phố Santa Ana và đáng lý ra thì thành phố Santa Ana phải công nhận Nghị Quyết Cờ Vàng đầu tiên thì mới phải, sự biểu quyết cờ vàng tại Santa Ana tối hôm nay là đã quá trễ nải rồi. Tôi rất vinh dự được đưa ra nghị quyết này. Xin cảm ơn tất cả mọi người ủng hộ. Nghị Viên Vincent Sarmiento đã ngỏ lời cảm ơn ông Khanh Nguyễn, Ủy Viên Santa Ana, trong sự thành công này vì ông là người đã kiên trì vận động và nổ lực giúp soạn thảo nghị quyết cuõng như thường xuyên theo dỏi để coi được kết quả này.

Kế đó bà Phó Thị Trưởng Claudia Alvarez cũng trình bày Nghị Quyết công nhận cờ vàng với 3 sọc đỏ là biểu tượng của cộng đồng người Việt yêu chuộng tự do và dân chủ, trước khi dứt lời bà còn đưa lên 2 lá cờ Việt-Mỹ nhỏ và đặt ngay trước mặt mình. Cả hội trường vỗ tay hoan hô vang dậy. Kế tiếp là Nghị Viên Sal Tinajero phát biểu là việc chấp thuận Nghị Quyết Cờ Vàng là một việc cần phải làm và để vinh danh sự đóng góp của cộng đồng người Việt tại Santa Ana. Cuối cùng Thị Trưởng Miguel Pulido xin mời tất cả các Nghị Viên biểu quyết. Những tiếng "YES" lần lượt vang lên từ từng nghị viên một với sự lập lại của Thư Ký Hội Đồng, kết quả với thắng lợi vẽ vang là 7-0! Tất cả những người Việt Nam có mặt reo hò vui mừng, giơ cao và những lá cờ vàng đang cầm trong tay, và lớn tiếng hoan hô cám ơn HĐTP Santa Ana và đặt biệt nhất là Nghị Viên Vincent Sarmiento. Có người hô to: "Thank you Santa Ana - We loves you Vincent"

Sau kết quả biểu quyết, mọi người tràn ra phía ngoài trước phòng họp của HĐTP Santa Ana, Nghị Viên Vincent Sarmiento được vây quanh bởi các cơ quan truyền thông và đồng bào. Nhiều vị cao niên Việt Nam cũng đã không cầm được sự cảm động của mình đã ôm chầm Nghị Viên Samiento để tỏ sự cám ơn. Những người cựu quân nhân Việt Nam với bộ quân phục bạt màu đã liên tục reo mừng hoan hỹ và không ngớt lời cám ơn thành phố Santa Ana và Nghị Viên Sarmiento. Một cô gái trẻ trong đoàn Thanh Niên Cờ Vàng trong tay với chiếc khăn choàng cổ thêu hình cờ vàng 3 sọc đỏ đã trân trọng trao tặng chiếc khăn này cho Nghị Viên Sarmiento để tỏ lòng cảm tạ của cô. Kế tiếp, anh Trần Trọng An Sơn đại diện cho tập thể cựu quân nhân VNCH long trọng gắn vào áo của Nghị Viên Sarmiento huy hiệu với 2 lá cờ Việt và Mỹ và nói "You are our hero and thank you!" kèm theo với tiếng hoan hô và reo hò vang dội giữa trung tâm thành phố Santa Ana.

Được biết trong quá khứ thành phố Santa Ana đã 2 lần thất bại trong Nghị Quyết vinh danh Cờ Vàng năm 2003 qua đề nghị của Nghị viên Mike Garcia và Nghị Viên Brett Franklin và năm 2008 với Nghị viên Vicent Sarmiento. Sự bất quá tam và lần này Nghị Quyết công nhận Cờ Vàng đã được thông qua với đa số tuyệt đối.

Tính đến ngày hôm nay, cờ vàng ba sọc đỏ đã được chánh thức công nhận bởi 14 tiểu bang, 7 quận hạt, 88 cộng thêm Santa Ana nửa là 89 thành phố và sự vận động tại những nơi khác trên Hoa Kỳ vẩn tiếp tục.
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Tin Cộng Đồng

Post by uncle_vinh »

TỪ CÔNG NHẬN CỜ VÀNG VIỆT NAM TỚI CẤM TREO CỜ ĐỎ VIỆT CỘNG

Nhiều thành phố, quận hạt, tiểu bang Hoakỳ công nhận Lá Cờ Vàng của Quốc Gia Việt Nam là biểu tượng tinh thần Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền của Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản tại Hoakỳ, là một bằng chứng hùng hồn nói lên rằng: Những cơ quan đại diện trực tiếp của Người Dân Hoakỳ đã đồng tình và triệt để hỗ trợ cho những cuộc tranh đấu chống lại chế độ độc tài toàn trị của Việtcộng, để đòi Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền cho toàn dân Việtnam của Người Việt Tỵ Nạn sống trên đất Mỹ và ở toàn thế giới. Lá Cờ Vàng, do đó, vừa là hiệu lệnh thống nhất, và duy nhất để quy tụ lực lượng đối kháng lại những âm mưu thao túng Cộng Đồng của Việtcộng, vừa là thứ vũ khí hữu hiệu trong tay các đoàn biểu tình bất bạo động, để dằn mặt, làm nhụt nhuệ khí, vô hiệu hóa khả năng tuyên truyền của Việtcộng trước dư luận quốc tế cho các chuyến công du của phái đoàn cấp cao Việtcộng chính thức viếng thăm Mỹ, và các nước khác có Cộng Đồng Người Việt hiện diện.

Mở đầu cho phong trào “Công Nhận Cờ Vàng”, khởi đi từ vùng Little Sàigòn, thủ đô của Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản, sau 53 ngày đêm người Việt Hải Ngoại kiên trì bất bạo động, chống lại sự xuất hiện của hình Hồ Chí Minh và lá Cờ Đỏ Sao Vàng của Việtcộng tại phố Bolsa. Với 2 Nghị quyết công nhận Cờ Vàng của 2 thành phố Westminster và Garden Grove, do hai nghị viên trẻ là Andy Quách và Trần Thái Văn của 2 thành phố đó là những tác giả của 2 bản Nghị Quyết lịch sử này. Để tới nay, hàng trăm thành phố, quận hạt, và tiểu bang có người Việtnam sinh sống, đều đã công nhận Lá Cờ Vàng tiêu biểu cho Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn. Sau khi Việtcộng công bố Nghị Quyết 36, chúng liền vận động với Bộ Ngoại Giao Mỹ để cho một phái đoàn Quốc Hội của chúng, công khai, ngang nhiên đến ‘tham quan’ khu Little Sàigòn, bằng xe limousine cắm cờ đỏ, được Cảnh Sát Mỹ hộ tống. Ngay lập tức, thành phố Garden Grove ra Nghị Quyết không cho các phái đoàn của Việtcộng chính thức quá cảnh, hoặc thăm viếng thành phố. Nghị quyết này do nghị viên Trẩn Thái Văn đệ nạp và được toàn thể hội đồng thành phố chấp thuận ngày 11/05/2004. Tiếp đến là thành phố Westminster cũng ban hành nghị quyết tương tự. Mục đích của nghị quyết 36 nhằm công khai hóa mọi sinh hoạt của Việtcộng trong Cộng Đồng Việtnam tại Hoakỳ đã bị bẻ gẫy.

Mặc dù vậy, việc treo cờ của các nước ngoài, ở các trường học, có học sinh của nước đó theo học là quyền của mỗi nhà trường. Nhất là các Đại Học có quy chế tự trị rất cao. Chính vì thế mà, vì vô tình, hay cố ý, nhiều trường ở các thành phố, quận hạt, tiểu bang đã công nhận Cờ Vàng vẫn treo Cờ Đỏ của Việtcộng, khiến cho Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản tốn rất nhiều công sức. Nên việc 2 tiểu bang Massachusetts, và mới đây là tiểu bang Texas đã ra Nghị Quyết cấm treo Cờ Đỏ của Việtcộng là một thắng lợi lớn đối với Cộng Đồng Tỵ Nạn Cộng Sản. HCR258, là nghị quyết do dân biểu tiểu bang Texas, gốc Việt, Hubert Võ đệ trình trước quốc hội tiểu bang, đã được Thượng Viện và Hạ Viện tiểu bang Texas thông qua hôm 30/05/2009. “HCR258 là Nghị quyết luật pháp khuyến cáo các trường Đại Học Houston ( University of Houston) và tất cả các trường đại học tại tiểu bang Texas phải treo Cờ Vàng là biểu tượng của người Việt quốc gia, đại diện cho Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản tại Texas, chứ không treo Cờ Đỏ của Việtcộng nữa”.

Sở dĩ có một vài trường đại học mượn cớ, là trường của họ có một số du sinh tại Việtnam theo học, nên họ phải treo Cờ Đỏ của chế độ Việtcộng, cũng như họ treo cờ của các nước khác. Nhưng việc này đã là một đả kích lớn đối với các sinh viên Mỹ gốc Việt, vốn là những người tỵ nạn cộng sản, ông bà, cha mẹ, anh chị em và chính bản thân họ đã từng bị chế độ đó đầy đọa, khủng bố, tước đọat quyền sống, cả quyền học hành, thế mà nay tới được bến bờ tự do, lại vẫn phải đến học dưới mái trường có Lá Cờ Đỏ ngạo nghễ tung bay, thì tâm tình, tinh thần đâu chịu đựng nổi. Nhất là trong khi đó, tại thành phố, quận hạt và tiểu bang ấy lại đã chính thức có nghị quyết công nhận Lá Cờ Vàng là tiêu biểu của cộng đồng mình. Còn đối với các du sinh từ Việtnam qua, thì họ đã có tự do để lựa chọn trường lớp và nước đến học. Đó là quyền của họ, không thể vì làm vừa lòng một thiểu số Việtcộng, mà quên đi nguyện vọng của đa số con em người Mỹ gốc Việt được.

Quả thật việc giới trẻ Việtnam tham gia vào chính trường Hoakỳ, nếu họ giữ vững được tâm hồn và ý chí của Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản, luôn luôn hướng về quê hương Việtnam, quyết tâm vận động cho một nước Việtnam Tự Do, Dân Chủ, Phú Cường thực sự, thì tiến trình Dân Chủ Hoá Việtnam chắc chắn sẽ rút ngắn lại nhiều. Vì các Nghị Viên thành phố, các Giám Sát Viên quận hạt, là những đơn vị trực tiếp hỗ trợ hữu hiệu cho công cuộc xây dựng thế vững mạnh cho Cộng Đồng Chống Cộng. Các Dân Biểu tiểu bang và Liên Bang đưa các nghị quyết, luật lệ có lợi cho công cuộc Dân Chủ Hoá Việtnam. Dân biểu tiểu bang California, Trần Thái Văn đã vận động thành công để tiểu bang công nhận Cờ Vàng, rồi được chính thống đốc Arnold Schwarzenegger đến tận Little Saigon ký ban hành. Đến nay Dân Biểu tiểu bang Texas, Hubert Võ đã thành công trong việc vận động Quốc Hội tiểu bang không cho treo Cờ Đỏ Việtcộng tại các trường đại học trong toàn tiểu bang

Còn dân biểu liên bang gốc Việt, Cao Quang Ánh đã vận động thành công để Hạ Viện Hoa Kỳ, ngày 28/04/2009, thống nhất thông qua Dự Luật H.Res.342 lấy ngày 02 tháng 05 hàng năm làm Ngày Của Người Tị Nạn Việt Nam, để vinh danh chuyến đi tới tự do của người Mỹ gốc Việt. Về Tự Do Tôn Giáo, dân biểu Cao Quang Ánh và dân biểu Ed Royce bảo trợ cho điều luật bổ sung của Dự Luật H.R.2410, khuyến cáo chính phủ Mỹ đưa Việtnam trở lại danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo – CPC, đã được Hạ Viện Mỹ thông qua, và chờ Thượng Viện Mỹ biểu quyết. Bộ ngoại giao Hoakỳ đã đưa nhà nước Việtcộng vào danh sách này từ năm 2004 đến 2006. Trong thời gian ấy, Hànội đã nới lỏng tự do tôn giáo tại Việtnam đôi chút. Nhưng sau khi Mỹ lấy tên Việtnam ra khỏi danh sách đó, thì Việtcộng lại xiết chặt các tôn giáo dân lập tại Việtnam thêm nữa. Đồng thời dùng thứ ‘Pháp Lệnh Tín Ngưỡng Tôn Giáo’ ma quái ‘xin cho’ đặt các tôn giáo đang được sinh hoạt công khai tại Việtnam dưới sự chi phối, kiểm soát của Mặt Trận Tổ Quốc công cụ của Cộng đảng, ngày càng gắt gao. Đứng ở thế quốc tế, Hoakỳ vẫn là một thế lực mạnh trong việc áp lực Việtcộng phải sớm Dân Chủ Hóa. Chính vì thế, mà người Mỹ gốc Việt chân chính càng đạt tới điạ vị cao trong mức thang Dân Cử Hoa Kỳ, thì càng thiết thực giúp ích cho đất nước khốn khổ Việtnam sớm thoát khỏi bàn tay cai trị của bọn đầy tớ Bắckinh mau hơn.

LÝ ĐẠI NGUYÊN
Little Saigon ngày 02-06-2009.
Post Reply