Sự Thật Phơi Bày

Post Reply
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Sự Thật Phơi Bày

Post by uncle_vinh »

Quan Lam Bao: bí ẩn khó giải mã
Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2012-08-28

Tin tức bầu Kiên bị bắt được trang blog Quan làm báo loan tải sớm hơn báo chí lề phải chín tiếng đồng hồ đã làm cho mọi người ngạc nhiên vì mức độ thông tin chính xác điều bí mật này.

Image
RFA file
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng

Một ngày sau khi bầu Kiên bị bắt, trên trang Basam xuất hiện bài viết của nhà báo Võ Văn Tạo có tựa đề "Bắt gà sống", "Bắt gà chết" với lời dẫn từ trang Quanlambao xác định chính trang blog này đã đưa tin vụ bắt bầu Kiên vào lúc 0 giờ ngày 21 tháng 8 năm 2012 với đầy đủ các chi tiết của vụ bắt giữ. Nhà báo Võ Văn Tạo gọi đây là "Bắt gà sống". Chín tiếng đồng hồ sau, vài tờ báo lề phải lục tục đăng lại những tin tức này một cách nhỏ giọt từ cơ quan công an và hành động "bắt gà chết" ấy, đã làm cho trang Quanlambao nổi tiếng ngay lập tức.

Bầu Kiên, bước đầu của Quan làm báo

Dư luận trở nên ồn ào trước sự việc này. Người cẩn thận nhất cũng phải thừa nhận mức chính xác khi đưa tin của Quanlambao. Những ai theo dõi trang này từ hai tháng trước cảm thấy một điều gì đó đang xuất hiện trong bầu trời chính trị u ám của đất nước và bắt đầu tin rằng có một thế lực rất mạnh phía sau hậu trường đang tung ra những tài liệu bí mật tương tự như Wikileak nhằm đánh phá chế độ bằng chính những bí mật của nó.

Hơn hai tháng trước đây khi Quanlambao xuất hiện, con số người truy cập của nó vượt qua cả trang Basam và Dân Làm Báo với số lượng không thể ngờ được. Không ai tin rằng trang blog này được lập ra bởi những người bất đồng chính kiến vì sự trình bày thiếu trang nhã của nó và nhất là cách hành văn rất đáng nghi ngờ về trình độ viết lách của trang này. Thế nhưng thông tin xuất hiện trên trang Quanlambao thì chưa hề thấy từ hàng ngàn trang blog trong và ngoài nước khác.

Những bài viết đầy ắp chi tiết bí mật làm người đọc bán tín bán nghi về nguồn cung cấp của nó. Phải là một cơ sở tình báo hay ít ra phát xuất từ một nhóm lãnh đạo chóp bu của đất nước mới có khả năng cung cấp những dữ kiện có tính chất thâm cung bí sử mà một cơ quan báo chí dù tài giỏi cách mấy cũng không thể có nhiều tin tức như vậy.

Quanlambao tỏ ra rất rành rẽ sinh hoạt tài chánh ngân hàng trong giới đại gia Việt Nam và những bản tin mà nó phổ biến cho thấy những hiều biết chuyên môn như một chuyên gia tài chánh có kiến thức sâu và đặc biệt nhất là nắm giữ được những kế hoạch từng bước thôn tính ngân hàng của nhóm người cực kỳ giàu có này.

Những thông tin mà Quanlambao đưa ra phanh phui bí mật mà các nhóm lợi ích như Nguyễn Đức Kiên, Nguyễn Thanh Phượng, Nguyễn Đăng Quang, Hồ Hùng Anh, Trầm Bê, hay Thái Hương…và Quanlambao cho rằng được bao che bởi một nhân vật quyền uy, tay mặt của Thủ tướng đương nhiệm là thượng tướng công an Nguyễn Văn Hưởng.

Một trong những người mà Quanlambao tố cáo quan trọng nhất là Nguyễn Đức Kiên, ông trùm trong lĩnh vực ngân hàng với điều mà Quanlambao cáo buộc là hành vi cấu kết với con gái của Thủ tướng là Nguyễn Thanh Phượng. Quanlambao cũng đưa ra các thông tin cho rằng Trầm Bê cùng nhiều người thân cận khác lũng đoạn ngành ngân hàng ra sao và những người này được Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước Nguyễn Văn Bình bao che, thông qua nguồn vốn nhà nước như thế nào để thu tóm các ngân hàng con một cách dễ dàng trong mấy năm qua.

Từ ngạc nhiên đến công nhận

Nhà văn Thùy Linh cũng là một người viết blog cho biết sự ngạc nhiên của bà như bao người khác về trang Quanlambao:

Thật ra đến giờ tôi vẫn chưa hiều lắm vê chuyện này, tôi rất kinh ngạc bởi vì đối với Quan làm báo thì nhiều người trong bọn tôi rất nghi ngờ và thậm chí có người cũng nói có một sự gì đấy rất tào lao. Gần đây tôi vẫn nghi ngờ đối với thông tin do Quan làm báo đưa ra nhưng khi vụ bắt bầu Kiên xảy ra thì tôi rất lấy làm lạ và thật sự tôi hoàn toàn vẫn không hiểu là tại sao một trang blog ra đời từ lâu như vậy và ai đứng đàng sau hoàn toàn tôi không đánh giá được.

Tại Việt Nam để ra đời một trang mạng có những thông tin động trời như thế mà lại tồn tại rất lâu, đưa những thông tin chính xác như thế thì đúng là chưa từng có. Thế cho nên chúng tôi không thể đánh giá hết được

Những chuyện như thế chắc chắn nó ảnh hưởng quá lớn đối với bầu không khí chính trị, xã hội trong nước. Cái mà pháp luật đang làm cụ thể là hậu quả của thị trường chứng khoán sụt giảm thì mọi người đánh giá là do tác hại ngằn hạn thì cũng phải chấp nhận nhưng về lâu dài những việc vi phạm pháp luật, hay những việc làm xấu xa bị đưa ra ánh sáng thì điều đó rất tốt cho sự phát triền của đất nước.

Một blogger khác là Bút thép, theo dõi Quanlambao từ khi nó xuất hiện đã chia sẻ suy nghĩ của anh:

Theo tôi thì trang blog Quan làm báo có tác động rất tích cực đối với xã hội Việt Nam. Những thông tin mà Quan Làm báo đưa ra tới nay đã được kiểm chứng rồi. Thí dụ trước đây khi chưa bắt bầu Kiên người ta nói những người làm trong Quan làm báo có thể là bốc phét nhưng đến nay thì nó bắt đầu dần dần được kiểm chứng và những gì mà trang Quan làm báo đưa ra nếu đúng như vậy thì rất là tốt đối với xã hội Việt Nam giúp mọi người thấy được nội bộ của chính quyền đảng cộng sản Việt Nam.

TS Nguyễn Thanh Giang thì cho rằng trang mạng này được sinh ra để chống đối một con người cụ thể là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và do đó nó khác với hầu hết các trang mạng của các nhân vật bất đồng chính kiến. Ông gọi đây là vấn đề phe phái:

Sự xuất hiện của trang Quan làm báo rõ ràng nó lôi cuốn được sự quan tâm của rất nhiều người. Nếu là người dân bình thường hoặc nếu là anh em đấu tranh cho dân chủ thì họ chỉ phản ứng hay phản biện các vần đề chung sự lãnh đạo của đảng, của nhà nước thôi chứ họ không tập trung vào một con người cụ thể. Ở đây cụ thề mà Quan làm báo đưa ra là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và những người liên quan đến ông ta như là ông thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng, như bầu Kiên như Trầm Bê, một loạt người khác. Tất cả Quan làm báo đều quy là bè lũ Nguyễn Tấn Dũng thì như vậy rõ ràng đây là vần đề phe phái.

Nhiều người theo dõi Quanlambao tin rằng với những thông tin về từng con người với bằng chứng như vậy Quanlambao sẽ khiến các thế lực phá hoại kinh tế Việt Nam sẽ chùn tay không thể ung dung thu tóm đất đai, tài sản của người dân như trước. Blogger Bút thép đồng tình về nhận xét này, anh nói:

Đúng rồi! khi Quan làm báo đưa ra những thông tin như vậy và bắt đầu được kiểm chứng thì chính quyền các cấp đặc biệt tại địa phương họ phải nhìn lại những gì mình đang làm và họ phải nhẹ tay hơn đối với những hành vi của họ đối với nhân dân, thí dụ như cướp bóc đất đai của dân hay đàn áp các blogger, các nhà dân chủ hay những hành vi không chính đáng như vừa rồi đánh luật sư Lê Quốc Quân chẳng hạn.

Nhà văn Thùy Linh cũng ủng hộ các nhận xét chung này của đa số công dân mạng, bà cho biết:

Vâng tôi nghĩ như thế, tôi ủng hộ điều đó. Riêng về việc đấu đá tôi không tham gia nhiều trong vấn đề chính trị cho nên tôi không hiểu lắm và tôi chỉ là người quan sát. Tôi quan sát và chưa đưa ra một đánh giá nào cả. Tôi có cảm giác đánh giá vào lúc này thì có vẻ hồ đồ lắm.

Điều mà tôi thấy hiện nay đang xảy ra tôi nghĩ rằng đúng là để cho lãnh đạo cao cấp buộc phải nhìn lại và đánh giá lại tất cả những việc mà họ đã làm và họ phải tìm một hướng đi thích hợp nếu muốn tồn tại.

Vẫn còn đó những câu hỏi...

Tuy công nhận lợi ích sau vụ bắt giữ bầu Kiên do tiết lộ của Quanlambao nhưng nhiều người vẫn lo sợ một vấn nạn khác mà thông tin từ trang Quanlambao có thể gây nguy hại cho đất nước so với những gì nó làm được trong vụ bầu Kiên.

Câu hỏi lớn nhất mà mọi người băn khoăn hiện nay là thế lực nào đã và đang cung cấp thông tin bí mật cho Quanlambao và quan trọng hơn, tại sao nó thoát được mạng lưới kiểm duyệt thông tin Internet dày dặc của nhà nước để ung dung đánh phá cả một thế lực mạnh nhất Việt Nam như vậy? Mời quý vị cùng với Mặc Lâm tìm hiểu trong bài tới.

Copyright © 1998-2011 Radio Free Asia. All rights reserved.
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Sự Thật Phơi Bày

Post by uncle_vinh »

Bài thơ nầy "xưa lắm rồi" nhung vẫn hay, quá hay:

Một Bài Thơ Không Tựa


tự do như muối
hạnh phúc như đường
khi còn đang ăn đủ miếng ngọt miếng ngon
khó thấy giá trị của hạt đường hạt muối.

tôi sống ở Miền Nam
nhìn dòng đời trôi nổi
nở lại tàn
bao nhiêu mùa hoa
hai nền Cộng Hòa
một cuộc chiến tranh dài đẫm máu.

tôi đã dốc lòng chiến đấu
bảo vệ tự do
dưới lá cờ
nền vàng ba sọc đỏ.

tiếc thay trong đội ngũ
chúng tôi có ít những Ngô Quang Trưởng, Nguyễn Khoa Nam
mà lại khá nhiều Nguyễn Vĩnh Nghi, Nguyễn Văn Toàn
nên lính mất niềm tin
dân chán nản
những kẻ có lòng
lắc đầu ngao ngán.

rồi nước Mỹ đồng minh, xưa là bạn
nay trở mặt lọc lừa
quên lời hứa năm xưa
bỏ mặc “tiền đồn của thế giới tự do”
thất thủ.

kẻ thù đưa tôi lưu đày biệt xứ
rồi khua chiêng gióng trống ăn mừng
đám trí thức, sinh viên, học sinh
xưa trốn vô bưng
mơ một thiên đường trên trái đất
nay ngồi trên khán đài nghếch mặt
“Thiên đường đang ở trong tầm tay”

Má Hai
xưa đào hầm nuôi cán bộ
nay hớn hở
“Tụi nó dzià mình chắc có tương lai”

bà Tám con chết trận Đồng Xoài
hãnh diện lãnh bằng gia đình liệt sĩ

những nhà văn, nhà thơ, xưa chống “cuộc chiến tranh phi lý”
(đâm sau lưng người lính Cộng Hòa)
nay chìa bút ra
xin viết bài ngợi ca chế độ mới

đám thanh niên xưa trốn chui trốn nhủi
ở hậu phương
xanh mặt khi nghe nhắc tới chiến trường
nay tự nhận đã yêu thầm cách mạng

những người dân bình thường
xưa gặp lính khi ghét khi thương
lúc buồn ngồi chửi đổng
“Tao chửi cả thằng Tổng Thống
xá gì lính tráng tụi bay”
nay cũng ngập ngừng vỗ tay
nhưng mắt nhìn quanh lấm lét
họ chưa có câu trả lời dứt khoát
muốn đợi một thời gian.

sau vài năm
cuộc hôn nhân qua tuần trăng mật
đã đầy nước mắt
và những tiếng nấc nghẹn ngào

đám trí thức vô bưng năm nào
tức giận thấy mình bị bội phản
buông lời phản kháng
kẻ vô khám Chí Hòa
người bị quản thúc tại gia
đưổi gà cho vợ
thiên đường ước mơ sụp đổ.

má Hai
đã quen dần với bo bo, với sắn với khoai
như người dân Miền Bắc
những cán bộ xưa má nuôi trong hầm bí mật
đã ra lệnh bắt má mấy lần
má không đủ ăn
lấy đâu đóng thuế?

bà Tám ôm tấm bằng Gia Đình Liệt Sĩ
bụng đói meo
làng trên xóm dưới ai cũng nghèo
tình người hiếm hơn hồi đó
bà ra mộ con ngồi nhổ cỏ
khóc thầm.

những văn nhân
một thời phản chiến
“ngộ biến tòng quyền”
cố bẻ cong ngòi bút
nhưng với văn thơ, với nhạc
quen phóng túng tự do
sao chịu nổi gông xiềng
lại tiếc những ngày trời rộng thênh thang
múa bút.

đám thanh niên hèn, khoác lác
tưởng được chế độ mới tin dùng
bị đi lao động quốc phòng
thanh niên xung phong
làm việc không công nơi rừng sâu nước độc
cháy da vàng mắt
đói lòng.

những người dân
xưa chửi vung chửi vít
nay im thin thít
chẳng dám hé môi
một số kẻ lỡ lời
bị đi “tù không án”
khi cán bộ xưng tụng bác Hồ, ca ngợi Đảng
họ cao giọng hoan hô
vỗ tay thật to
nhưng bụng thầm ao ước được sống lại những ngày xưa cũ!

sau ba mươi tháng tư, đớn đau tủi hổ
là gia đình người lính Cộng Hòa
kể bị cướp nhà
người bị cướp đất
con bị đuổi học
vợ mất sở làm
chồng đi tù biệt tăm
đi họp, cán bộ Cộng Sản mỉa mai nhiếc móc
ra đường bị lườm dọc nguýt ngang.

đến khi ruộng vô tập đoàn
gạo vải sữa đường bán theo tiêu chuẩn
nhà máy công ty hãng xưởng
trờ thành quốc doanh

công an khu vực đầy quyền hành
thực thi chính sách nhân dân hộ khẩu
người dân chịu đời không thấu
mà chẳng dám than vãn kêu ca

bấy giờ gia đình người lính Cộng Hòa
mới nhận được những tia nhìn thiện cảm
nghĩ đến con, đến chồng, đến cha
trong nhà tù Cộng Sản
họ hãnh diện ngẩng đầu.

hôm nay giữa trời cao
được thấy lá cờ vàng ba sọc đỏ
phất phới bay trong gió
tôi muốn khóc thật to
tôi muốn hét lên
“Đây hạnh phúc! Đây tự do”
mà thuở nào tôi đã buông tay đánh mất
để phải chôn tháng năm tươi đẹp nhất
của cuộc đời
trong các trại tù rải rác khắp nơi
trên đất nước.
họ hàng tôi, đồng bào tôi
những ai không đi được
mấy chục năm trường
gánh chịu đau thương
uất hận tủi hờn
nhìn quê hương tan nát.

mẹ Việt Nam ơi ! Những đứa con lưu lạc
đã nhận rõ lỗi lầm
đang đấu tranh âm thầm
cho một ngày quang phục.
sẽ còn nhiều khó nhọc
để dành lại giang san
từ tay bọn Cộng Sản tham tàn

nhưng kìa! Phất phới bay trong gió
vẫn như ngày nào
lá cờ vàng ba sọc đỏ
mà sao hôm nay chính nghĩa sáng ngời
chẳng cần một lời luận bàn lý giải

tôi đứng lặng nhìn, lòng khoan khoái
lá cờ vẫn còn đây
thì quê hương ơi! sẽ có một ngày.

Viết tại San Leon sau một lần dự lễ dựng
kỳ đài tại Houston.
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Sự Thật Phơi Bày

Post by uncle_vinh »

Người biểu tình chống TQ xin ra khỏi Đảng
Cập nhật: 12:34 GMT - thứ năm, 13 tháng 9, 2012

Image
Công an đã kéo lê và đạp vào mặt ông Nguyễn Chí Đức hôm 17/7/2011

Nguyễn Chí Đức, người biểu tình chống Trung Quốc bị công an hành xử thô bạo hồi năm ngoái, vừa nộp đơn xin ra khỏi Đảng CSVN sau 12 năm làm Đảng viên.

Đúng ngày sinh nhật lần thứ 36 của mình, ông Đức đã gửi đơn lên đảng ủy chi bộ nơi ông công tác với nguyện vọng "được ra khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam càng sớm càng tốt".

Nói chuyện với BBC từ Hà Nội, ông Đức cho hay đây là quyết định được ông đưa ra sau một quá trình suy nghĩ nghiêm túc và lâu dài.

Ông nói kể từ khi ông phấn đấu để vào Đảng và được là đảng viên dự bị năm 2000 khi còn là sinh viên năm thứ nhất Đại học Bách khoa Hà Nội tới khi soạn thảo lá đơn, ông đã có nhiều thay đổi về nhận thức.

Ông Đức nói: "Khi rèn luyện phấn đấu để vào Đảng, tôi thực sự thấy rằng tôi muốn vào Đảng vì trong Đảng có nhiều người tốt, tôi chia sẻ tư tưởng của họ".

Được biết gia đình ông Nguyễn Chí Đức thuộc diện gia đình cách mạng với quá trình hoạt động lâu dài từ trước Cách mạng Tháng Tám.

Tuy nhiên trong thời gian suốt hơn 10 năm làm Đảng viên, ông Đức nói ông thấy dần xa lạ với những ý tưởng của chủ nghĩa Mác Lênin và muốn theo đuổi con đường chủ nghĩa dân tộc.

"Cả một quá trình dài, chứng kiến những bất công trong cuộc sống, những tiêu cực trong xã hội và nghe các câu chuyện về nội bộ của Đảng, tất cả những điều đó đều ảnh hưởng tới quyết định của tôi."

Lá đơn của ông cũng giải thích: "Có những bất công trong cuộc sống, nghịch lý trong xã hội, mâu thuẫn ngầm giữa một bộ phận không nhỏ các tầng lớp nhân dân với ĐCSVN, mối quan hệ thiếu minh bạch và bất tương xứng giữa ĐCSVN với Đảng Cộng Sản Tàu, các biến động chính trị trên thế giới mà khi quán chiếu theo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam “soi đường chỉ lối” khiến tôi phải lấn cấn, có khi hoang mang cực độ."

Ông cho biết: "Thực ra ý định xin ra khỏi Đảng đã đến với tôi năm 2004 nhưng lúc đó chưa thực hiện được."

'Không chống Đảng'

Ông Nguyễn Chí Đức cũng nói ông cảm thấy gần gũi với tinh thần dân tộc chủ nghĩa của các chí sỹ yêu nước như Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh và muốn đi theo con đường quốc gia dân tộc.

"Tôi cho rằng đã đến lúc ra đi, vì ở trong Đảng tôi không giúp được gì cho Đảng, mà cũng không thực hiện được những gì tôi ấp ủ."

Thế nhưng ông Đức khẳng định "ra khỏi Đảng không phải là chống Đảng" và ông vẫn tiếp tục góp phần cải tạo xã hội, giúp đỡ đồng bào.

Đơn của ông nhắc lại: "Một lần nữa, tôi rất mong tổ chức Đảng cấp trên xem xét cho tôi được ra khỏi Đảng Cộng Sản Việt Nam càng sớm càng tốt dù được chấp thuận hay bị khai trừ cũng được."

Ông Nguyễn Chí Đức là một trong những người tham gia biểu tình chống Trung Quốc nhiều lần từ khi làn sóng biểu tình nổ ra ở Hà Nội mùa hè năm ngoái.

Trong cuộc biểu tình hôm 17/7/2011, ông đã bị công an Hà Nội đối xử thô bạo.

Dư luận trong nước nói nhiều về một đoạn video chiếu hình ảnh các nhân viên an ninh mặc cả sắc phục và thường phục đang kéo một người thanh niên lên xe buýt sáng hôm đó.

Người thanh niên nằm ngửa bị nắm tay chân, đặt nằm trên đất trước khi lôi lên cửa xe buýt. Vào thời điểm đó, một nhân viên an ninh mặc thường phục áo phông màu vàng xuất hiện ở cửa xe, lấy chân dậm thẳng vào mặt người thay niên đang nằm dưới đất khiến người này giơ tay ôm mặt.

Sau đó, người thanh niên bị vất lên xe.

Đó chính là Nguyễn Chí Đức, người sau đó nói ông "đã bị khống chế như con lợn... mấy đồng chí công an còn đạp (sút) tổng cộng 4 phát. Đạp từ trên đạp xuống trong lúc mình đang còng queo".

"Trong đó có 2 phát được ăn bánh "giầy" vào mồm. Một phát trượt qua cổ. Một phát vào ngực."

Nhưng ông nói việc trấn áp phũ phàng này không phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới quyết định ra khỏi Đảng của ông.
Do Huynh Ho
Posts: 177
Joined: 17 Oct 05, Mon, 10:06 pm
Location: CN11, Illinois, USA

Re: Sự Thật Phơi Bày

Post by Do Huynh Ho »

SAO LẠI XÂY DỰNG NHÀ TƯỞNG NIỆM HỒ CHÍ MINH TRONG KHU DI TÍCH ĐỀN HÙNG?
Nguyễn Thu Trâm, 8406
Cali Today News - Theo bản tin của Thông Tấn Xã Việt Nam tại Hà Nội, thì lãnh đạo tỉnh Phú Thọ sẽ đầu tư khoảng 60 tỷ đồng để xây dựng Nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại đồi Phân Trà thuộc Khu di tích lịch sử Đền Hùng.
Theo đó, nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh dự kiến sẽ được xây dựng trên diện tích 8.400m2 và được xây dựng theo lối kiến trúc truyền thống, gồm tứ trụ, nhà bia ghi công lao to lớn của Bác với đất nước, dân tộc; tiền tế, đại bái hậu cung và các công trình phụ trợ khác như: Nơi đón tiếp, nơi trưng bày hiện vật, khuôn viên, đường đi, cây xanh…

Cũng theo lãnh đạo đảng và chính quyền tỉnh Phú Thọ thì: “Công trình Nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Khu di tích lịch sử Đền Hùng nhằm tôn vinh công lao to lớn của Người, đồng thời mang giá trị kết nối thể hiện lòng tri ân bậc tiền nhân có công dựng nước và giữ nước, là nơi giáo dục truyền thống và báo công với Bác của các thế hệ người Việt đồng thời tạo nên điểm nhấn và tăng thêm giá trị cho Khu di tích đặc biệt cấp quốc gia. Kiến trúc của công trình được xây theo kiến trúc truyền thống, tạo sự hài hòa với toàn bộ cảnh quan của Khu di tích lịch sử Đền Hùng…”
Thật là ô nhục hết chổ nói!


Với đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam thì đến bao giờ mới hết những luận điệu trơ tráo thiếu liêm sỷ như thế này?
Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đang sử dụng cái xác chết của Hồ Chí Minh, chưng bày trong cái lăng ô nhục đó để làm cái phao cho sự tồn tại của đảng cộng sản vẫn chưa đủ hay sao lại muốn đặt lão Hồ lên ngang hàng với Đức Quốc Tổ Hùng Vương? Sao lại đặt để một tên tàn hại giống nòi, bán đứng đất nước lên ngang hàng với Đấng dựng nước và giữ nước?
Kính lạy hồn thiêng sông núi!
Kính lạy Đức Quốc Tổ Hùng Vương và các Vua Hùng! Sao cương thường Việt Nam trong thời đại cộng sản trị lại điên đảo đến mức này?
Thưa quý vị,
Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, phần lời tựa của sử thần Ngô Sĩ Liên chép: "Nước Đại Việt ở phía nam Ngũ Lĩnh, thế là trời đã phân chia giới hạn Nam–Bắc. Thuỷ tổ của ta là dòng dõi họ Thần Nông, thế là trời sinh Chân Chúa, có thể cùng với Bắc triều mỗi bên làm Đế một phương"
Lại chép về họ Hồng Bàng như sau: "Xưa cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh sinh ra Đế Nghi, Rồi sau Đế Minh đi tuần phương Nam, đến dãy Ngũ Lĩnh gặp Vụ Tiên nữ sinh ra Vương Lộc Tục. Vương là bậc Thánh trí thông minh. Đế Minh yêu quí lạ, muốn cho nối ngôi. Vương cố nhường cho anh mình, không dám vâng mệnh. Đế Minh vì thế lập Đế Nghi là con trưởng nối dòng trị phương Bắc. Lại phong cho vua là Kinh Dương Vương, trị phương Nam, đặt tên nước là Xích Quỉ. Vương lấy con gái Chúa Động Đình tên là Thần Long, sinh ra Lạc Long Quân.".
"Lĩnh Nam chích quái" thời Trần viết rằng: "Âu Cơ kết hôn với Lạc Long Quân, sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con. Về sau, Lạc Long Quân chia tay với Âu Cơ; 50 người con theo cha xuống biển, 50 người con theo mẹ lên núi. Người con cả được tôn làm vua, gọi là Hùng Vương." đứng đầu nước Văn Lang.

Ngôi Hùng Vương là cha truyền con nối. Hùng Vương đồng thời là người chỉ huy quân sự, chủ trì các nghi lễ tôn giáo. Dưới Hùng Vương có các lạc tướng, lạc hầu giúp việc. Cả nước chia thành 15 bộ, là các đơn vị hành chính lớn, có Lạc Tướng còn trực tiếp cai quản công việc của các bộ.
Kinh đô của nước đặt ở Phong Châu, Phú Thọ. Trong suốt 18 đời Vua Hùng trị vì đất nước, nhờ Vua sáng tôi hiền mà nước nhà được thịnh trị, dân chúng muôn phương được an lạc, thái bình, những người viết blog cá nhân không bị bắt bớ giam cẩm, những người yêu nước, xuống đường biểu tình chống Tàu man xâm lược biển đảo không bị công an của nhà Vua đạp vào mặt, không bị đưa vào trại phục hồi nhân phẩm Thanh Hà. Nhà Vua cũng như Triều Thần không hề cho các công nhân quốc phòng của Hạ Vũ sang khai thác Bô Xít ở Tây Nguyên, nên 50 người con của Vua Hùng theo mẹ lên núi khai hoang lập ấp đều được sống yên bình mà không bị các chủ xưỡng của nhà Hạ đánh đập, hãm hiếp. Cũng vậy, Vua Hùng cùng các Lạc Tướng, Lạc Hầu cũng từ chối ký công hàm công nhận hải phận 12 hải lý của nhà Hạ, nhờ vậy mà biển đảo cũng trọn vẹn chủ quyền, 50 người con theo Cha xuống biển đi đánh bắt cá xa bờ tận Hoàng Sa, Trường Sa cũng không hề bị hải quân của nhà Hạ đâm chìm, không bị trấn cướp hải sản hay ngư cụ, cũng không hề bị bắt đưa về Tây Hạ đòi tiền chuộc, nhờ đó mà đời sống của muôn dân trăm họ luôn được an lạc thái bình.

Để tưởng nhớ công đức cao dày đó của Đức Quốc Tổ Hùng Vương và của các Vua Hùng, Lạc Việt bách tính đã muôn người như một, đồng lòng chung sức xây dựng quần thể đền đài tôn miếu để thờ phượng Quốc Tổ cùng các Vua Hùng và tôn thất của nhà vua trên núi Nghĩa Lĩnh nằm trong địa phận của kinh đô Phong Châu của quốc gia Văn Lang cổ xưa – Đây là những việc làm đúng đạo nghĩa của các thế hệ cháu con đối với các đấng Tiên Hiền, các bậc khai quốc và nhất là đối với vị Quốc Tổ. Cho nên việc xây dựng nhà tưởng niệm của bất cứ ai một nhân vật lịch sử nào khác vào trong quần thể đó, sẽ phá vỡ hết sự tôn nghiêm và là một sự xúc phạm lớn đến lòng tôn kính của con dân Lạc Việt đối với Quốc Tổ Hùng Vương, huống chi là xây dựng nhà lưu niệm một tội đồ dân tộc ngay trong khuôn viên của Đền Thờ Quốc Tổ là một điều sỷ nhục muôn đời không tha thứ được.
Tại sao? Kính mời quý vị xem xét lại nhân thân của Hồ Chí Minh để thấy được liệu cái xác của lão Hồ có xứng đáng được mai táng ở trong phạm vi lãnh thổ của Việt Nam hay chưa, chứ nói chi đến việc xây dựng một nhà tưởng niệm cho lão trên bất cứ vùng miền nào ở đất nước Văn Lang này:
Hồ Chí Minh tên thật là gì trong số 152 tên gọi, bút danh, bí danh của lão như: Sinh Cung, Tất Thành, Văn Ba, Vương, Lý Thụy, Lin, Thầu Chín, Tống Văn Sơ, Hồ Quang, Già Thu, Ái Quốc, XYZ, Nguyễn, T.L., Trần Lực, Wang, N.A.Q., Lincôpxki,… hay Le Caca…hay gì gì đó cũng được, nhưng nhất định lão đích thị là họ Hồ chứ không phải thuộc dòng họ Nguyễn Sinh, bởi cha của lão Hồ là con rơi của cử nhân Hồ Sỹ Tạo, một dòng họ Hồ ở đất Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu mà theo gia phả còn lưu lại trong nhà thờ họ Hồ ở đó thì đây là một chi phái Hồ thuộc hậu duệ của Hồ Quý Ly. Từ cái xuất thân đó của lão Hồ mà người Việt chẳng lạ gì cái thói láo lường bịp bợm và trộm cướp của Hồ Chí Minh, bởi tổ phụ của Hồ Chí Minh vốn cũng là kẻ đã soán cướp ngôi vua từ nhà Trần.
Hồ Quý Ly (胡季犛) trước có tên là Lê Quý Ly (黎季犛), tự là Lý Nguyên (Vì vậy mà Hồ Chí Minh cũng đã từng lấy tên là Lý Thụy!). Theo gia phả họ Hồ thì tổ tiên Hồ Quý Ly là Hồ Hưng Dật vốn người Chiết Giang Trung Quốc, đời Hậu Hán thời Ngũ đại Thập quốc năm 947-950, tương đương thời Dương Tam Kha của Việt Nam, sang làm Thái thú Diễn Châu và định cư ở hương Bào Đột, nay là xã Quỳnh Lâm, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Đến đời nhà Lý, có người trong họ lấy công chúa Nguyệt Đích, sinh ra công chúa Nguyệt Đoan. Đời cháu thứ 12 là Hồ Liêm dời đến ở hương Đại Lại, Thanh Hóa, làm con nuôi tuyên úy Lê Huấn, từ đấy lấy Lê làm họ mình. Quý Ly là cháu bốn đời của cụ Hồ Liêm và Hồ Chí Minh là chút chít 16 của Quý Ly. Ngày 28 tháng 02 năm Canh Thìn 1400 Hồ Quý Ly đã cướp ngôi của nhà Trần từ cháu ngoại của mình là Trần Thiếu Đế. Noi theo gương tổ phụ Quý Ly, ngày 10 tháng 7 năm Ất Dậu tức là ngày 17 tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh cướp chính quyền từ tay chính phủ Trần Trọng Kim và rồi chỉ hai năm sau vào năm 1947 thằng chút chích này của Hồ Quý Ly lại vô cùng trịch thượng, thất lễ với nhà Trần, khi đến viếng Đền Kiếp Bạc tại Côn Sơn, Hải Dương, nơi thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn cùng Trần Triều Liệt Thánh, Hồ Chí Minh đã ngang ngược vung bút đề thơ rằng:
“Cũng là hào kiệt, cũng anh hùng
Tôi Bác cùng chung nợ kiếm cung
Bác đuổi quân Nguyên thanh kiếm bạc
Tôi xua giặc Pháp ngọn cờ hồng
Bác đưa một nước qua nô lệ
Tôi dắt năm châu đến đại đồng
Bác có linh thiêng cười một tiếng
Mừng tôi Cách mạng sắp thành công…”
Thật là cuồng ngôn lộng ngữ và trịch thượng hết chổ nói! Thử hỏi lại xem liệt tổ liệt tông 16 đời của Hồ Chí Minh là phản thần Hồ Quý Ly đã đủ tư cách để gọi Đức Thánh Trần là bác chưa, sao thằng ngỗ tử nghịch tôn của Quý Ly lại dám gọi Ngài là bác và xưng là tôi? Sao một kẻ một kẻ đẻ muộn sinh sau Đức Thánh Trần đến ngót 663 năm mà lại lộng ngôn đến vậy? Đây là “tư tưởng và đạo đức của Hồ Chí Minh” để những người cộng sản Việt Nam hôm nay phải noi học theo chăng?
Ngang tàng và ngạo mạn như vậy, nên Bác Sỹ Phan Quang Đán trong Nguyệt San Bất Khuất đã phải nặng lời răn bảo Hồ rằng:
Bớ tên Hồ tặc, Vẹm gian hùng
Dám sánh Đức Trần nghiệp kiếm cung!
Mi đứa tay sai Sô-Viết đỏ
Ngài vì sao sáng giống Lạc Hồng
Bình Nguyên Ngài cứu non sông Việt
Tổ quốc mi quên nghĩa cộng đồng
Nô lệ toàn dân nay đói rách
Như mi bán nước tội hay công?
Vẫn chưa hết, ngoài cái thói cuồng ngôn trịch thượng đó, Hồ Chí Minh còn lã kẻ từng lừa bạn, phản thầy mà theo nhiều sử liệu thì chính lão Hồ đã bán đứng cụ Phan Bội Châu cho mật thám Pháp để lấy tiền thưởng, chính Hồ cũng đã thanh trừng những người đồng chí của Hồ để thâu tóm quyền lực như Ngô Gia Tự, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Hồ Tùng Mậu, Tạ Thu Thâu, cũng như việc Hồ đã thủ tiêu những chí sỹ yêu nước khác như cụ Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi, Trương Tử Anh, Trần Khánh Giư… và một tài liệu gần đây nhất còn cho thấy rằng cũng chính Hồ Chí Minh đã cấu kết với đảng cộng sản Pháp mưu sát Thiếu tá Nguyễn Phúc Vĩnh San tức Cựu Hoàng Duy Tân vào ngày 24 tháng 12 năm 1945, khi Ngài bay từ Bourget, Paris đáp chuyến chiếc phi cơ Lockheed C-60 của Pháp trở về La Réunion thăm gia đình trước khi thi hành sứ mạng mới, đó là trở lại Việt Nam để thành lập một chính phủ mới phi cộng sản, thuộc Liên Hiệp Pháp, sau khi cựu Hoàng Bảo Đại bị Việt Minh buộc thoái vị.

Là cháu con của kẻ phản thần đại nghịch soán đoạt ngôi vua là Quý Ly, đến 16 đời sau con cháu của kẻ phản nghịch đó là Hồ Chí Minh lại du nhập một chủ nghĩa cộng sản ngoại lai về để làm cho quốc phá gia vong, rồi lại lừa bạn, phản thầy, tru thê sát tử, ám hại một vị cựu Hoàng hết lòng ái quốc như Vua Duy Tân và đang khiến cho cả dân tộc Việt Nam điêu linh, ly loạn, đói nghèo ngu dốt và nhược tiểu đến phải đối mặt với một đại họa mất nước đang cận kề, thì kẻ tội đồ ấy có xứng đáng để đúc tượng xây lăng hay không? Kẻ tội đồ ấy có đáng được tôn thờ, tưởng nhớ hay không? Khi còn tại thế Hồ Chí Minh đã mang đau thương tang tóc cho cả dân tộc này rồi, sau khi qua đời cho đến nay, Hồ Chí Minh lại tiếp tục tiêu tốn hàng chục tỷ đồng mỗi ngày từ tiền thuế của nhân để bảo quản cái thi hài của lão cũng như để tôn tạo lăng mộ, miếu mạo của cha mẹ anh chị em của lão… đến độ người dân Việt vốn đói rách, vốn còm cõi nay phải còm cõi đói rách hơn… Như thế vẫn chưa đủ hay sao? Tại sao lại bòn rút thêm mồ hôi, xương máu của một dân tộc đang cơ lại đến phải bán máu để nuôi thân, bán trôn để nuôi miệng… mà xây dựng thêm một đền tưởng niệm một kẻ tội đồ, mà lại xây dựng ngay trên Đền Thờ Quốc Tổ?
Với bài tâm bút này, tôi xin cảnh tỉnh các lãnh đạo đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam, hãy sớm tỉnh thức, hãy kịp thời dừng ngay những việc làm ngu tối và tội lỗi này, nếu không hồn thiêng sông núi sẽ giáng lâm mà tru diệt hết giống dòng cộng sản và cháu con nhiều đời của các vị, bởi việc làm húy phạm đến Đức Quốc Tổ là một tội lỗi khó tha.
Nguyễn Thu Trâm, 8406
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Sự Thật Phơi Bày

Post by uncle_vinh »

Việt Nam của thế kỷ 21 vẫn còn có nạn kiêu binh:
Một đại họa cho đất nước và cho dân tộc, cần phải tiêu diệt!

Nguyễn Hùng, Trần Hoài Nam (Danlambao) -

Image

Suốt chiều dài lịch sử 4000 năm của Việt Nam cho đến 30 tháng 04 năm 1975, đất nước Việt Nam chỉ có một lần rơi vào thảm cảnh nạn kiêu binh của thời hậu Lê (1533-1789). Theo Wikipedia: “do những quân lính gốc ở Thanh - Nghệ, cậy mình có công, đã sinh thói kiêu căng, coi thường luật lệ, gây ra và làm trong và ngoài triều chính thời đó hết sức điêu đứng, khổ sở. Theo sách Việt sử tân biên, thì nạn kiêu binh này là một trong những nguyên nhân khiến cơ nghiệp Lê - Trịnh ở Việt Nam mau đổ nát”.

Những lính gốc gác vùng Thanh Nghệ vì cậy công phò chúa (chúa Trịnh), phò thái tử, vua (Lê) nên kiêu căng, sách nhiễu dân chúng. Dân chúng vô cùng khổ sở vì sực hà khắc côn đồ xem thường pháp luật của bọn binh lính kiêu binh. Bọn lính kiêu binh cậy có công phò chúa, phò vua đã ngang nhiên chiếm đoạt tài sản của dân chúng, dành các mối lợi về kinh doanh, đất đai, đầm hồ, chợ búa, bến đò, sông bải. Nói chung những gì có lợi là bọn họ và nhóm bè đảng tay chân thâu tóm, mặc cho sư ta thán của người dân.

Theo Wikipedia: “Trong sách Hoàng Lê nhất thống chí ở hồi hai và ba, có nhiều đoạn kể khá tỉ mỉ nạn kiêu binh. Nhờ tác giả là người đã sống trong thời đại hỗn loạn ấy, nên chúng có giá trị lịch sử & hiện thực cao. Trong bài giới thiệu tác phẩm này, Kiều Thu Hoạch có đoạn nói đến nạn kiêu binh như sau:

Trịnh Sâm thì hoang dâm, xa xỉ. Vua Lê Cảnh Hưng thì bù nhìn, bạc nhược. Trịnh Tông chỉ là con rối của đám kiêu binh. Còn quan lại đa phần là một phường dung tục, bất tài, chỉ rình rập cơ hội để tranh giành quyền lực, danh lợi... Dưới những vua quan như vậy, thì binh lính đương nhiên cũng không thể có kỷ cương, phép tắc gì. Những "ưu binh" đã biến thành "kiêu binh" ngang ngược, quay lại uy hiếp triều đình, quấy nhiễu dân chúng, tùy ý phá nhà, giết người, khiến mọi người đã phải gọi chúng là "quân bất trị". Và ba chữ ấy đã trở thành nỗi khủng khiếp của một thời.”

Nạn kiêu binh của thời hậu Lê và chúa Trịnh đã suýt đẩy Việt Nam vào vòng lệ thuộc Tàu do hành động rước voi dày mả tổ của vua Lê Chiêu Thống nếu không có Vua Nguyễn Huệ với tài dùng binh kiệt xuất đánh bại lực lượng hùng hậu khoảng ba trăm ngàn quân Tàu của vua Mãn Thanh vào năm 1789.

VIỆT NAM HIỆN NAY, THẾ KỶ 21, CÓ NẠN KIÊU BINH HAY KHÔNG?

Tuyệt đại đai số người dân Việt quả quyết nạn kiêu binh đang lộng hành trên toàn cỏi đất nước, từ tổ dân phố đến tận trung ương! Quả thật là như vậy. Kiêu binh thời nay nó khủng khiếp hơn vào thế kỷ 18. Thử xét nghiệm lời than oán của người dân về đại nạn kiêu binh thời đại “a còng - @” của thề kỷ 21.

Tổ dân phố, phường, quận, huyện:

Người dân luôn bị kiểm soát, hạch sách bởi công an khu vực, dân phòng, công an an ninh phường quận huyện. Họ khinh thường chính luật lệ do đảng cộng sản của họ đặt ra. Dân chúng bị ép buộc “giáo dục” bởi các nhóm, tổ chức ngoại vi của đảng cộng sản có trình độ văn hóa sơ cấp, may ra chỉ có trình độ đảng viên. Hành động quản chế giáo dục các nhà trí thức, khoa học, luật sư bất đồng chính kiến tại xóm, tổ dân phố bởi các thành phần ngoại vi của đảng cộng sản với sự hiểu biết nông cạn sơ đẳng là một thí dụ. Đây là nạn kiêu binh tại cấp hạ tầng cơ sở, dựa vào quyền lực cai trị chuyên quyền của đảng cộng sản.

Chính quyền trung và cao cấp ngành cảnh sát công an:

Đây là nơi tập trung đại nạn kiêu binh. Họ ngang nhiên chà đạp đến các quyền tự do căn bản do chính đảng cộng sản của họ đặt ra và được ghi hẳn hoi vào chính bản hiến pháp của đảng cộng sản ban hành. Muốn đánh đập, hành hạ, giết bỏ dân chúng họ “tự do” làm. Muốn bỏ tù thì cứ việc đóng dấu cho cái tội tuyền truyền chống đảng, nhà nước. Thời Lê-Trịnh chỉ có một nhóm kiêu binh “Thanh Nghệ” lộng hành, nhưng thời kỳ Việt Nam định hướng tiến tới xã hội chủ nghĩa, đảng cộng sản có cả một hệ thống gần 3 triệu đảng viên ăn theo với đầy dẫy kiêu binh từ địa phương đến trung ương tác oai tác quái dân chúng.

Chính quyền địa phương, trung và cao cấp ngành hành chánh:

Tuy trên mặt ngôn từ là hai tổ chức hành chánh và an ninh phải khác nhau, nhưng tựu trung họ cũng chỉ là cùng một tổ chức của đảng cộng sản. Họ cấu kết, hợp đồng cộng tác với nhau để áp bức cướp đoạt tài sản của dân, cùng chia nhau và với các bọn lợi ích. Tại nông thôn, họ cướp đất của dân, cướp nhà cửa, cơ sở kinh doanh trao tay trục lợi. Họ đương nhiên không chừa tài nguyên quốc gia, đào xới bán xổi cho bọn Tàu anh em đồng chí. Bọn họ ngày nay giàu nhiều lần hơn những người mà cha anh của họ đã từng gán tội là tiểu tư sản, tư sản. Bọn họ nay được gọi một cách mỉa mai là bọn “tư bản đỏ”.

Thời kỳ 1975-1985 họ gán cho người dân tội hợp tác với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, tội tư sản để ngang nhiên cướp đoạt và chia chác cho nhau nhà cửa, ruộng vườn, tài sản cơ sở kinh doanh của dân chúng miền Nam, như các chiến lợi phẩm.

Thời kỳ 1990 – nay họ quay lại họ cướp đất, cướp mồ hôi nước mắt của người dân đã từng bao che ủng hộ họ tại miền Nam, và đau đớn hơn là họ lại đối xử cạn tàu ráo máng với dân chúng tại miền Bắc, những người theo đảng từ năm 1954, cái nôi của cộng sản Việt Nam. Họ ăn cắp tài nguyên rừng biển, khoáng sản, quặng mỏ. Họ tham nhũng trong tất cả các dự án đầu tư. Họ không phải ăn cắp theo kiều ăn cắp vặt mà ăn cắp có hệ thống qui mô từ trung ương đến địa phương, hằng ngàn tỷ đồng, hằng trăm triệu USD, từ các công trình ngàn tỷ, từ các dự án viện trợ của nước ngoài, từ các dự án vay. Họ tạo ra các tập đoàn kinh tế nhà nước để thao túng nguồn vốn của quốc gia. Tất cả các tập đoàn đều thua lỗ hằng ngàn, hằng chục ngàn tỷ đồng (Vinashin, Vinalines, Điện lực Việt Nam, Than Khoáng Sản, Dầu Khí, Sông Đà, Xây Dựng, Hàng Hải, Ngân hàng...) Số tiền thua lỗ thực chất do bọn cán bộ quan chức kiêu binh ăn chận khi thực hiện các công trình ma quỷ hay mua sắm thiết bị dỏm, phế thải. Nhưng họ chỉ bị kiểm điểm, học tập trong tình đồng chí (kiêu binh), rồi được điều động sang nhiệm sở khác béo bở hơn, hay được hạ cánh an toàn!

Lính kiêu binh thời vua chúa hậu Lê-Trịnh so với tập thể kiêu binh dưới thời đảng cộng sản Việt Nam chỉ là cá chốt với cá mập. Kiêu binh thời hậu Lê-Trịnh là một nhóm binh lính. Nhưng Việt Nam của thế kỷ 21, kiêu binh không phải là binh lính (bộ đội) mà là công an, là quan chức thế hệ con cháu Bác Hồ từ địa phương đến trung ương, nói chung là đảng viên đảng cộng sản Việt Nam. Họ lấy danh nghĩa đảng cộng sản cấu kết nhau thành “tập đoàn kiêu binh”. Tập đoàn kiêu binh tại Việt Nam của thế kỷ 21 gồm tuyệt đại đa số sinh sau năm 1975 hoặc ở tuổi thiếu niên hay tuổi đôi mươi mới vào du kích địa phương (miền Nam), bộ đội (miền Bắc) vào thời điểm 1975 nay được thăng quan tiến chức trong guồng máy đảng cộng sản, nhưng hành động chống lại người dân của họ thì sắc máu và tàn độc hơn bọn quan chức thời kỳ Pháp thuộc, để lập công với nhóm kiêu binh lãnh đạo đàn anh. Tập đoàn kiêu binh “kinh tế” cấu kết với kiêu binh công an thâu gom của cải của dân, tài sản quốc gia và cùng chia chác với nhau, đẩy dân vào con đường bần hàn. Không những thế, tập đoàn kiêu binh kinh tế còn cấu kết với các nhóm lợi ích ngang nhiên bán đất, giao biển đảo cho bọn xâm lược. Vì tư lợi bằng mọi cách họ quyết thực hiện các dự án độc hại hủy hoại đất nước và ảnh hưởng đến sự tồn vong của dân tộc như dự án Bauxit, dự án điện hạt nhân, v.v... Họ sống vô tư trong nhung lụa còn hơn dân giàu có của các nước tư bản phương tây. Họ và con cái ăn xài hoang phí với sự giàu có phi nhân bất chính trong khi đó ngoài miệng thì hô hào toàn dân sống tự trọng, đạo đức, liêm chính theo chủ nghĩa “vô sản” Mác Lê và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Ngay trong hàng ngũ lãnh đạo trung ương của đảng cộng sản, nhóm kiêu binh trung ương đảng cũng chẳng xem luật đảng, tôn ti trật tự đảng ra gì. Bằng chứng cụ thể là với kết quả cuộc họp trung ương đảng kỳ 6 vào đầu tháng mười vừa qua, lãnh đạo cao nhất của đảng cộng sản Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng đã phải bó tay trước sự lộng quyền của nhóm kiêu binh trung ương đảng kết bè kết phái. Ông ta đã uất ức đến ứa nước mắt khi đọc bài diễn văn bế mạc phiên họp đặc biệt này, trong khi bọn kiêu binh trung ương đảng bên dưới lại cười khẩy đắc thắng!

Nhóm kiêu bình thời hậu Lê-Trịnh bị vua Nguyễn Huệ tiêu diệt và giúp đất nước thoát khỏi ách lệ đô hộ của bọn Tàu phương Bắc.

Loạn kiêu binh thời đại toàn cầu hóa tại Việt Nam tuy tinh vi, ác độc và đôi khi không còn nhân tính nhưng vẫn có thể bị khuất phục và loại bỏ. Đó là cơ chế và chế độ mà nó đang bám vào như cây chùm gởi. Bọn kiêu binh công an và kinh tế sở dĩ lộng hành vì có sự bao che của cơ chế độc quyền độc đảng lỗi thời, của chế độc độc tài. Một khi chế độ chuyên chính độc đảng được thay thế bởi một cơ chế đa đảng, tam quyền phân lập, nhân quyền và quyền tư do của toàn dân được bảo vệ thì bọn kiêu binh tự nó sẽ bị tiêu trừ. Một bằng chứng cụ thể là với chế độ độc tài quân phiệt Miến Điện, khi được thay thế trong ôn hòa bởi một thể chế tự do dân chủ thì bọn kiêu binh công an và quan chức tại Miến Điện đã nhanh chóng bị hóa giải.

Nhóm lãnh đạo cao cấp của đảng cộng sản Việt Nam hiện nay nếu thật sự yêu nước, lo cho tiền đồ và tương lai của dân tộc của đất nước, hãy nhanh chóng từ bỏ cơ chế kiêu binh, độc tài chuyên chính lạc hậu và thực hiện một thể chế đa nguyên đa đảng bình đẳng, tam quyền phân lập.

Chỉ có con đường thay đổi chế độ sang một thể chế đa nguyên đa đảng mà tuyệt đại đa số các nước trên thế giới áp dụng, trong số đó Miến Điện là quốc gia mới nhất vừa dứt khoát đoạn tuyệt với chế độ độc tài quân phiệt, thì đại họa kiêu binh đang hủy hoại tổ quốc và dân tộc mới được giải trừ. Khi đó Việt Nam mới thật sự là quốc gia tự do dân chủ, và kỷ cương quốc pháp mới được tái lập.

Ngày 22 tháng 11 năm 2912

Nguyễn Hùng, Trần Hoài Nam
danlambaovn.blogspot.com
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Sự Thật Phơi Bày

Post by uncle_vinh »

Những sự thật cần phải biết:
"THỐNG NHẤT" - Xin đừng xảo ngôn!

Đặng Chí Hùng (Danlambao)


Đằng nào thì cũng đã "thống nhất" bằng đổ máu rồi, đằng nào thì nhân dân và các vị "lão thành cách mạng, nhân sỹ XHCN" cũng bị đảng "XẢO NGÔN" lừa dối rồi. Bây giờ không phải lúc kêu than đảng sửa sai, van xin đảng thay đổi vì đảng cộng sản không thể thay đổi. Và cũng vì chính danh dự của mình đã bị đảng, bị ông Hồ lợi dụng, lừa đảo bao năm qua, tôi xin kêu gọi các vị hãy quay về với nhân dân để tranh đấu cho tự do, dân chủ thực sự tại Việt Nam. Chỉ có thế thì mới đúng với tinh thần dân tộc Việt Nam trường tồn. Đừng để đảng lừa nữa và cũng đừng để thế hệ con cháu như chúng tôi phải xấu hổ về những nhận thức ngây thơ, tự hào quá khứ "cách mạng" của các vị. Hãy để tinh thần dân tộc lên tiếng trong con tim các vị và hãy để cho chúng tôi thế hệ trẻ Việt Nam tôn trọng sự thật. Sự thật thì mất lòng, nhưng mất lòng mà nhận ra cái sai của lũ bán nước, để nhân dân cùng một lòng đứng lên dẹp bỏ nó thì cũng là việc nên làm...

*
Muốn hiểu, nhìn rõ hơn về bản chất bán nước
và xảo trá của đảng CSVN ngày hôm nay, cần nhìn xuyên suốt
bản chất và quá trình bán nước của đảng trong suốt mấy mươi năm qua.


Kính thưa bạn đọc thôn Danlambao,

Như tôi đã từng đề cập ở các bài trước, ngoài loạt bài "Những sự thật không thể chối bỏ" về tội ác của ông Hồ Chí Minh, thì còn tiếp theo là loạt bài "Những sự thật cần phải biết". Loạt bài này gồm 30 bài nói về Việt Nam Cộng Hòa, đảng cộng sản Việt Nam và những cá nhân lãnh tụ khác của đảng cộng sản Việt Nam cho đến thời điểm hiện tại.

Dựa trên tinh thần những bài "Những sự thật không thể chối bỏ" và "Những sự thật cần phải biết", tôi xin trân trọng gửi đến bạn đọc bản cáo trạng tố cáo tội ác ông Hồ và đảng cộng sản Việt Nam, mong muốn bạn đọc tham gia ký tên hưởng ứng và đóng góp thêm tư liệu.

Thưa bạn đọc gần xa,

Trên thực tế đến hôm nay vẫn còn một bộ phận không nhỏ trong nhân dân và kể cả giới trí thức XHCN đang bị căn bệnh đó là căn bệnh xuất phát từ tù ngữ "thống nhất". Chính bởi cái cụm từ "thống nhất - giải phóng" mà hàng triệu con tim đất Việt đã phải ngừng đập. Và cũng chính bởi cái cụm từ đó mà cho đến nay chưa nhiều người dám đứng thẳng người để nhìn nhận lại lịch sử, nhìn nhận lại thực tế, nhìn nhận lại chính mình. Bản thân tôi cũng đã và đang ở trong cái môi trường của sự nhồi nhét và tẩy não của đảng cộng sản, tuy nhiên thật may mắn cho tôi là tôi sớm nhận ra nó chỉ bằng những quan sát, tìm hiểu và suy ngẫm, đặt câu hỏi cho những vấn đề liên quan.

Tôi viết bài này ngoài trả lại sự thật lịch sử, còn có thêm một ý nghĩa đó là một tiếng nói của một con người đồng cảnh ngộ bị nhồi nhét như rất nhiều người muốn cảnh tỉnh cho ai còn bị lầm tưởng về sự thống nhất đất nước của đảng cộng sản.

Trên thực tế, từ "giải phóng" và "thống nhất" luôn đi kèm như một thứ bình phong của đảng cộng sản biện hộ cho tội ác chất chồng của họ đối với dân tộc Việt Nam. Tôi đã đề cập đến sự xảo trá của cộng sản trong việc dùng từ "giải phóng" để lừa dối nhân dân ta qua các bài số 11,12,13 của "Những sự thật không thể chối bỏ", bài 2, 3 của "Những sự thật cần phải biết". Trong khuôn khổ bài này tôi xin phân tích thêm về một từ khác trong cụm từ làm bình phong tội ác của cộng sản - đó là "thống nhất".

Như tôi từng đề cập, không thể có chuyện "giải phóng ngược" khi một nước có nền kinh tế, văn hóa, giáo dục, dân trí, đời sống... nhân dân thua kém và trì trệ lại đi "giải phóng" cho một nước phát triển hơn mình. Và cái cớ "giải phóng" càng trở nên lố bịch hơn khi chẳng có nhân dân bị "kiềm kẹp" cũng như "xâm lược" của Mỹ. Đảng cộng sản chỉ dùng chính sách "ngậm máu phun người" để khủng bố nhân dân VNCH để đạt được mục tiêu xâm lăng VNCH - hoàn thành thâu tóm quyền lực, thâu tóm của cải, cũng như thực hiện chỉ thị của Trung cộng. Như tôi đã chứng minh tại loạt bài trước của mình, nước Việt Nam đã bị thống nhất trong yếu đuối, suy tàn là mục tiêu của Trung cộng, được thực hiện bởi ông Hồ Chí Minh. Bởi vậy hãy nhìn vào thực tại hiện nay, LẪN NHỮNG GÌ ĐÃ DIỄN RA HÀNG MẤY CHỤC NĂM QUA thì sẽ nhận thấy: CSVN đã và đang bán đứng, chuyển giao Việt Nam từng bước cho Trung cộng.

Tại sao? Tại sao nhân dân vẫn còn chưa đấu tranh mãnh liệt trước những hành vi bán nước trắng trợn, đàn áp, bóc lột nhân dân đến tột độ của đảng CSVN? Bởi vì chính những người đã từng bước nhận ra bộ mặt thật của đảng cộng sản vẫn nhầm lẫn ở vấn đề "THỐNG NHẤT".

Thứ nhất, theo từ điển tiếng Việt online (1) có định nghĩa như sau: "thống nhất là một động từ: hợp thành một khối có chung cơ cấu, tổ chức, thống nhất là một tính từ: có sự nhất trí với nhau."

Thứ hai, theo wiki (2) thì thống nhất là "Có sự phù hợp, nhất trí với nhau, không mâu thuẫn nhau, hợp lại thành một khối."

Như vậy có thể thấy là trên thực tế, thống nhất chỉ là một từ vừa là động từ, vừa là tính từ nói lên sự: hợp thành chung một cơ cầu và có sự nhất trí với nhau.

Vậy tại sao tôi lại nói "Thống nhất - Xin đừng xảo ngôn!" bởi vì cho đến giờ phút này thì cả hai sự định nghĩa về từ "thống nhất" đều bị đảng cộng sản lợi dụng nó như một món thuốc mê bịp bợm biết bao thế hệ người Việt Nam. Tôi xin chứng minh quan điểm của mình bằng tài liệu và luận cứ trong bài này.

1. Thống nhất để làm gì?

Nói cho đúng, bất cứ ai là con dân Việt Nam đều mong muốn có một đất nước độc lập, toàn vẹn và thống nhất thực sự. Đó là điều mà cá nhân tôi cũng rất, rất mong muốn. Nhưng thống nhất cũng không phải là cái cớ để làm bừa, làm sai, làm theo kiểu trò cướp giật, khủng bố chỉ để mong có quyền lực, làm suy yếu đất nước và đẩy những người anh em Việt Nam vào cảnh huynh đệ tương tàn, đầu rơi máu chảy.

Tôi đã từng đề cập, kẻ gây chiến là VNDCCH trong cuộc chiến 20 năm tại Việt Nam. Họ tiến hành việc khủng bố núp dưới chiêu bài "nhân dân nổi dậy" mà tôi đã vạch rõ trong bài 3 "Những sự thật cần phải biết". Và đảng cộng sản lợi dụng chiêu bài "Thống nhất đất nước" để đẩy nhân dân 2 miền vào khói lửa đau thương. Tại sao lại nói "thống nhất để làm gì?" bởi vì:

Thứ nhất, như tôi đã từng chứng minh rằng VNCH đang có sự dân chủ, phát triển hơn hẳn VNDCCH thì không cần đến giai phóng ngược (xin xem "Những sự thật không thể chối bỏ" phần 2, 3, 11, 12, 13 và "Những sự thật cần phải biết" phần 2). Vậy thì trong một chừng mực nhất định, hãy để cho sự dân chủ, tự do và phát triển được sinh sôi nảy mầm tại Việt Nam, ít ra là trên lãnh thổ Miền Nam Việt Nam. Như vậy theo dòng tiến hóa của lịch sử, của thời gian và quy luật đào thải tất yếu sự thống nhất sẽ phải đến. Tại sao phải có sự thống nhất vội vàng bằng vũ lực của cộng sản? Chỉ tại họ tham lam quyền lực cá nhân và vâng lời bán nước cho Trung cộng.

Thứ hai, như đã biết về đúng khái niệm "thống nhất" thì đây là một khái niệm chỉ sự nhất trí với nhau. Nhưng cộng sản và dân chủ làm sao có thể thống nhất bằng vũ lực, bằng chiến tranh. Đó là một sự cưỡng bức khái niệm cũng như xảo ngôn của cộng sản.

Nói rộng hơn thì nước VNCH là một nước độc lập, có chủ quyền hợp pháp được LHQ công nhận (xin xem thêm phần 3 của "Những sự thật cần phải biết") thì tại sao cần phải "thống nhất" bởi một nước khác bằng vũ lực? Đó chính là xự xâm lăng bất hợp pháp được biện hộ bằng xảo ngữ của cộng sản: Thống nhất.

Sẽ có nhiều người cho tôi là không muốn thống nhất đất nước và chia rẽ vùng miền, nhưng tôi xin khẳng định là không phải như vậy. Đơn giản là tôi muốn thống nhất nhưng không phải bằng con đường vũ lực mà phải để cho nhân dân tự do quyết định số phận đất nước mình chứ không thể là ý thích, là mệnh lệnh ác độc của các chóp bu cộng sản. Điều này tôi xin giải thích rõ ở mục 2.

Thứ 3, như tôi đã từng đề cập, chính ông Lê Duẩn đã khẳng định cuộc chiến 20 năm với VNCH là "ta đánh cho Liên Xô, Trung Quốc" thì đâu phải là "thống nhất" nữa? mà nó đơn thuần là cuộc cưỡng chiếm một nước khác bất hợp pháp dưới chiêu bài "Thống nhất".

Chính việc "ta đánh cho Trung Quốc, Liên Xô" cho thấy sự phí nghĩa của sự "thống nhất" bằng bạo lực của cộng sản, bằng chứng là họ đẩy hàng triệu thanh niên hai miền vào cõi chết cùng với một nước Việt Nam suy tàn về nội lực cho Trung cộng dễ chiếm (xin xem thêm tại "Những sự thật không thể chối bỏ" phần 10). Đó là sự xảo ngôn của đảng cộng sản Việt Nam.

Thứ tư, nhận xét về sự việc này tác giả người Nga A. Steanovki của Viện nghiên cứu lịch sử Liên Xô cũ đã viết trong cuốn "Hồi ức Châu Á" của mình tại trang 44 như sau: "Về căn bản, cuộc nội chiến nào cũng xuất phát từ mâu thuẫn tôn giáo, chính trị hoặc lãnh thổ. Người ta có vô vàn lý do để biện minh cho mình. Đó là những sai lầm mà chính chúng ta từng ủng hộ nhiệt thành. Giá mà chúng ta biết dừng lại ở mức độ quan sát và hòa giải thì đã không có cuộc chiến Việt Nam. Ở đó, chúng ta đạt được mục đích là gây khó khăn cho người Mỹ. Nhưng cái giá phải trả là quá đắt cho hàng triệu sinh mạng vô tội".

Theo tôi, đây là một nhận xét khá khách quan của một đảng viên nhiệt thành của đảng cộng sản Liên Xô. Ông ta đã nhận xét đúng về nội chiến và đặc biệt nhận xét đúng về chiến tranh Việt Nam. Cuộc nội chiến mà đem đến chết chóc đau thương cho hàng triệu người vô tội đã bị che lấp bởi từ ngữ bóng bẩy "thống nhất" mà tác giả Steanovki viết trong cuốn sách dày 200 trang, xuất bản năm 2002 của ông là "vô vàn lý do để biện minh". Ông cũng cho rằng việc Liên Xô ủng hộ cái mỹ từ "thống nhất" của đảng cộng sản Việt Nam là sai lầm vì nó trả giá rất đắt: Mạng người.

Thứ năm, trong cuốn sách “Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua” của Nhà xuất bản Sự Thật công bố 14/10/1979, phụ trách bản thảo đưa in là Phạm Xuyên và Đình Lai có đoạn:

“Trong chiến lược toàn cầu của những người lãnh đạo Trung Quốc, nếu họ coi Liên Xô và Mỹ là những đối tượng chủ yếu cần phải chiến thắng, thì họ coi Việt Nam là một đối tượng quan trọng cần khuất phục và thôn tính để dễ bề đạt được lợi ích chiến lược của họ...”, “Đường vẽ chấm là “biên giới” của Trung Quốc theo quan điểm bành trướng, những vùng đánh số là những lãnh thổ mà nhà cầm quyền Bắc Kinh cho là đã bị nước ngoài “chiếm mất” bao gồm: một phần lớn đất vùng Viễn Đông và Trung Á của Liên Xô (số 1, 17, 18), Át Xam (số 6), Xích Kim (số 4), Butan (số 5), Miến Điện (số 7), Nêpan (số 3), Thái Lan (số 10), Việt Nam (số 11), Lào, Campuchia…” và “Chủ tịch Mao Trạch Đông còn khẳng định trong cuộc họp của Bộ Chính trị ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc, tháng 8 năm 1965:

“Chúng ta phải giành cho được Đông nam châu Á, bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malayxia và Singapore… Một vùng như Đông nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản… xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy… Sau khi giành được Đông nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió Đông sẽ thổi bạt gió Tây…”

Rõ ràng đoạn trích này của người cộng sản Việt Nam cho thấy họ phải công nhận Trung cộng muốn “khuất phục” Việt Nam mà bao đời họ đã không làm được. Trung cộng tự coi Việt Nam là một phần của họ. Cuốn sách này lại đề cập tiếp:

“Trong cuộc gặp giữa đại biểu bốn đảng cộng sản Việt Nam, Trung Quốc, Inđônêxia và Lào tại Quảng Đông tháng 9 năm 1963, thủ tướng Chu Ân Lai nói: “Nước chúng tôi thì lớn nhưng không có đường ra, cho nên rất mong Đảng Lao động Việt Nam mở cho một con đường mới xuống Đông nam châu Á.”

“Để làm suy yếu và nắm lấy Việt Nam, họ ra sức phá sự đoàn kết giữa ba nước ở bán đảo Đông Dương, chia rẽ ba nước với nhau, đặc biệt là chia rẽ Lào và Campuchia với Việt Nam. Đồng thời họ cố lôi kéo các nước khác ở Đông nam châu Á đối lập với Việt Nam, vu khống, bôi xấu, hòng cô lập Việt Nam với các nước trên thế giới.” Và:

“Trong 30 năm qua, những người lãnh đạo Trung Quốc coi Việt Nam là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu đối với chiến lược của họ, luôn luôn tìm cách nắm Việt Nam. Muốn như vậy, nước Việt Nam phải là một nước không mạnh, bị chia cắt, không độc lập và lệ thuộc Trung Quốc.”

Như vậy âm mưu thôn tính Việt Nam bằng con đường cô lập, và gây chia rẽ và muốn gây nội chiến tại Việt Nam là một cứu cánh cho Trung cộng. Chính những người cộng sản Việt Nam cũng phải nói lên sự thực này. Trung cộng muốn một Việt Nam yếu đuối về cả con người và tài nguyên để họ dễ dàng nắm cổ. Trung cộng rất khôn khéo ở chỗ muốn Việt Nam chia đôi nhưng lại bán vũ khí cho Miền Bắc để gây chiến với Miền Nam. Nam Bắc đánh nhau chính là điều Trung cộng muốn. Chúng ta hoàn toàn có thể kiểm chứng thông tin về cuốn sách đã viết trên website của quân đội Việt Nam (Cộng sản) (3)

Nếu VNCH và VNDCCH tiếp tục cuộc chiến, Trung cộng có lợi thế: bán vũ khí đổi lấy biển đảo (xem "Những sự thật không thể chối bỏ" - phần 3); về chiến lược và chính trị là o bế được đảng cộng sản Việt Nam, giảm ảnh hưởng của Liên Xô và gây khó cho Mỹ.

Nếu VNDCCH thắng thì Trung cộng sẽ có thể yên tâm mà lấy Việt Nam một cách dần dần vì lúc này Việt Nam đã "thống nhất" trong suy yếu đuối và những người đứng đầu đảng cộng sản Việt Nam là của Trung cộng. Trung cộng xâm chiếm Việt Nam thật nhẹ nhàng không tốn đạn dược nữa. Bạn đọc quan sát kỹ tình hình Việt Nam và Trung cộng 80 năm qua sẽ thấy điều đó. Ngày nay điều đó càng rõ ràng hơn sau hội nghị Thành Đô và những biểu hiện như Hoàng Sa - Trường Sa của Việt Nam thành Tam Sa của Trung cộng hay Ải Nam Quan, thác Bản Giốc, bãi Tục Lãm... đã, đang và sẽ là Tây Nguyên... rồi cả Việt Nam. Nếu không sớm nhận ra âm mưu bán nước của đảng cộng sản Việt Nam, cả dân tộc sẽ rơi vào vòng nô lệ Trung cộng như Tây Tạng.

Thứ sáu, tài liệu của Liên Xô viết bởi nhóm tác giả đã từng hoạt động ở KGB, đăng trong cuốn sách có tên “Một bước đi lớn” do nhà xuất bản quân đội Liên bang Nga phát hành vào năm 1999 nói về hoạt động tình báo của Liên Xô có đoạn ở trang 126: “Khả năng rất lớn là Mỹ sẽ có vai trò quan trọng trong việc thiết lập hòa bình ở Đông Nam Á trong đó có Việt Nam. Trung quốc cũng hiểu điều này. Chính vì thế Liên Xô phải chuẩn bị cho tình huống xấu nhất là chủ nghĩa tư bản ngự trị tại nơi mà Liên Xô đang mong muốn xây dựng chủ nghĩa Xã hội…”

Rõ ràng là người Liên Xô một lần nữa khẳng định Mỹ vào Việt Nam để "thiết lập hòa bình" và Liên Xô đã thúc đẩy cho VNDCCH gây chiến với VCCH để mở mang chủ thuyết cộng sản chứ làm gì có "thống nhất" mà đảng cộng sản lừa dối nhân dân ta.

Thứ bảy, chúng ta cũng nên nhìn lại một chút xíu về sự việc công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng do ông Hồ chỉ đạo công nhận Hoàng Sa - Trường Sa là của Trung cộng (xem "Những sự thật không thể chối bỏ" - phần 2).

Sự việc này nếu nhìn kỹ sẽ thấy điều gì? Về sự việc bán nước đổi vũ khí để gây chiến thì tôi đã chứng minh rõ ràng với bạn đọc rồi. Nhưng sự việc đó nói lên một khía cạnh khác của sự việc. Thời điểm đó thì HS-TS thuộc sự quản lý của VNCH. Cứ cho là đảng cộng sản Việt Nam muốn "thống nhất" đất nước thực sự đi thì tại sao lại không thống nhất phần đất thuộc về một nước Việt Nam thống nhất mà VNCH đang quản lý. Vậy đảng cộng sản không muốn "thống nhất" cả HS-TS hay sao? Vậy thì với lý do nào đảng cộng sản cũng cho thấy họ là những kẻ bán nước cho Trung cộng và cũng là những kẻ chỉ muốn tham lam quyền lực đỏ và tay sai cho quốc tế cộng sản chứ làm gì có "thống nhất". Chẳng có từ THỐNG NHẤT đúng nghĩa nào lại đem lãnh thổ của cái THỐNG NHẤT đó giao cho nước ngoài cả.

Kết luận: Đảng cộng sản chỉ lợi dụng từ ngữ "thống nhất" để lừa đảo nhân dân, đặc biệt là nhân dân miền Bắc để hi sinh cho lợi ích của đảng, của cá nhân lãnh tụ. Họ cũng lấy lý do "thống nhất" để gây chiến tranh phi nghĩa, bán nước cho Trung cộng. Đảng cộng sản thật sự là những kẻ xảo ngôn!

2. Thống nhất như thế nào?

Như trên tôi đã trình bày, tôi cũng như bao người Việt Nam cũng đều muốn "thống nhất" đất nước. Tôi viết bài này không có ý chia rẽ nhân dân và đất nước. Phải nói cho đúng, dù là làm gì thì các thể chế chính trị phải tôn trọng nguyện vọng của nhân dân và tôn trọng cuộc sống của nhân dân. Không thể dùng biện pháp bạo lực và khủng bố để thống nhất trong cưỡng bách được. Đảng cộng sản đã không làm điều này vì họ biết rằng nếu để nhân dân biết sự thật thì họ sẽ không ủng hộ cộng sản. Điều này kết hợp với bản chất gian manh của cộng sản là làm tay sai cho Trung cộng, cho quốc tế cộng sản đã không cho phép cộng sản thực thi điều này. Cộng sản đã tiến hành bạo lực để cướp nước khác, ép buộc nhân dân vào cái "thống nhất" theo thòng lọng của họ. Nếu mong muốn thật sự thống nhất và thương yêu dòng máu Việt Nam tại sao đảng cộng sản không làm theo những phương pháp sau đây?:

Thứ nhất, cứ thực hiện đúng hiệp định Geneve hoặc sau này là Paris 1973 để không gây chiến tranh với VNCH. Tại sao không chăm lo cho đời sống nhân dân miền Bắc như chính quyền VNCH đã làm đối với nhân dân Miền Nam. Nếu thực sự đảng cộng sản muốn thống nhất thì họ cứ lo cho nhân dân đi rồi thì tự khắc nhân dân sẽ tin họ trong một cuộc tổng tuyển cử dân chủ 2 miền như cách Đông và Tây Đức đã làm. Tại sao? Tại sao? Đảng cộng sản thực chất không lo cho dân, họ chỉ lo cho bản thân họ và đẩy nhân dân hai miền đến những đau thương vô hạn. Nói cho đầy đủ thì đảng cộng sản chỉ muốn cướp bóc thành quả của VNCH cũng như để thỏa mãn mục tiêu bành trướng và bản năng khát máu của chủ nghĩa cộng sản mà thôi.

Thứ hai, nếu đảng cộng sản muốn thật sự thống nhất tại sao không để cho nhân dân tự quyết định, đặc biệt là nhân dân Miền Nam. Như trong bài "Những sự thật cần phải biết" - phần 3 tôi đã chứng minh đảng cộng sản Việt Nam đã dùng chính sách khủng bố nhân dân để tiến hành xâm chiếm bằng bạo lực với nước khác. Nếu thật sự muốn nhân dân hạnh phúc và đất nước "thống nhất" thì đảng cộng sản không phải thi hành chính sách kích động khủng bố này.

Thứ ba, nếu thật tâm lo cho dân tộc, đặt quyền lợi của đất nước, dân tộc lên trên hết thì tại sao họ không học theo VNCH để yên dân, phát triển đất nước thì lúc đó nhân dân Miền Nam sẽ không cần kích động mà vẫn có thể theo cộng sản. Phải chăng cộng sản chỉ là những kẻ vô học, khát máu và hiếu chiến nên họ không thể làm gì khác ngoài "bạo lực cách mạng"?

Thứ tư, trong cuốn sách nghiên cứu khá sâu sắc về quốc tế cộng sản “Chủ thuyết của chúng ta” của học giả A. Schenalder - một đảng viên đảng cộng sản CHDC Đức - được ấn hành tại Đông Đức năm 1981, trên trang 93 có nói đến nhân vật Hồ Chí Minh được tạm dịch như sau: “Người cộng sản chân chính không đánh giá quá cao về tấm lòng nhiệt thành và lý tưởng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh). Nhiều vị lãnh tụ như Stalin nhận thấy ở ông ta một sự tư lợi cá nhân mà một người có tinh thần dân tộc ít có.”

Đoạn trích cho thấy ngay cả người cộng sản trong thâm tâm họ cũng nghĩ rằng ông Hồ không phải hoàn toàn hoạt động vì vấn đề dân tộc mình, ông ta nặng về “sự tư lợi” cho bản thân thì đúng hơn. Điều này cho thấy ông Hồ không hề hoạt động đơn thuần cho lý tưởng dân tộc mà chỉ vì lợi ích cá nhân. Như vậy chúng ta thấy, người đứng đầu đảng cộng sản Việt Nam không có "tinh thần dân tộc" thì "thống nhất" chỉ là cái cớ mà thôi. Thống nhất phải đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu, nhưng ông Hồ không có thì thống nhất cái gì? Chỉ là xảo ngôn.

Thứ năm, một đoạn văn trên website của tỉnh Thừa Thiên Huế đã công nhận sự kiện Nhật trao trả độc lập cho Việt Nam là có thật. Trong bài giới thiệu về điện Kiến Trung (4) có đoạn: “Ngày 9 tháng 3, Nhật đảo chính Pháp và thỏa thuận trao trả độc lập cho Việt Nam. Hai ngày sau, 11 Tháng Ba vua Bảo Đại triệu cố vấn tối cao của Nhật là đại sứ Yokoyama Masayuki vào điện Kiến Trung để tuyên bố nước Việt Nam độc lập. Cùng đi với Yokoyama là tổng lãnh sự Konagaya Akira và lãnh sự Watanabe Taizo.” Một website của đảng cộng sản cũng phải công nhận một sự thật lịch sử hiển nhiên là Nhật đã chấp nhận trao trả độc lập cho Việt Nam thông qua chính quyền của vua Bảo Đại.

Chính quyền Liên Xô sau khi nhận được tin Nhật trao trả độc lập cho Việt Nam đã phải thốt lên qua lời của Stalin “Thật sự khó khăn cho hệ thống xã hội chủ nghĩa khi Việt Nam được người Nhật ưu ái” - được ghi trong cuốn sách tại trang 233 có tên tạm dịch “Đường dài xã hội chủ nghĩa”. Cuốn sách này là tổng kết những phát biểu về xã hội chủ nghĩa Liên Xô và thế giới của Lê Nin, Stalin, Breznep.. được viết bởi N. Badasov, một nhà nghiên cứu lịch sử tại Liên Xô và cũng là đảng viên đảng cộng sản Liên Xô. Điều này càng minh chứng thêm cho sự kiện chính quyền Nhật trao trả độc lập cho Việt Nam là có thật.

Qua hai sự kiện này chúng ta thấy điều gì? Đó là Việt Nam đã bước vào giai đoạn thống nhất đâu có cần đảng cộng sản phải cướp chính quyền của ông Trần Trọng Kim - một chính quyên của Việt Nam thống nhất mà không cần đánh nhau, đổ máu? (xin xem thêm "Những sự thật không thể chối bỏ" phần 11, 12). Tại sao không thống nhất bằng cách cứ để cho chính quyền của ông Trần Trọng Kim hoạt động và điều hành đất nước rồi thông qua tuyển cử mà thi thố "tài năng" với chính quyền đó? Bản chất lừa đảo của đảng cộng sản là đây.

Kết luận: Đảng cộng sản không đi theo con đường hòa bình để thống nhất đất nước, không chấp nhận đảng phái đối lập nắm quyền đất nước dù đảng phái đó thực chất tốt hơn đảng cộng sản, dân chủ, tự do hơn đảng cộng sản rất nhiều. Không thiếu gì cơ hội cho thống nhất đất nước trong hòa bình. Đảng cộng sản cố tình bỏ qua điều đó. Họ chỉ muốn gây chiền mà thôi. Bản chất của kẻ khát máu và hiếu chiến thì không có chỗ cho THỐNG NHẤT TRONG HÒA BÌNH.

3. Kết luận chung:

Kính thưa bạn đọc!

Thống nhất đất nước là điều hợp lý và cũng là ước muốn có một Việt Nam thật sự vững mạnh. Nhưng không thiếu gì cơ hội mà đảng cộng sản đã cố tình bỏ qua. Họ cũng cố tình muốn chiếm thế độc quyền đến độc tài để nắm đất nước không thông qua các biện pháp ngoại giao cũng như tổng tuyển cử dân chủ.

Vì sao vậy? vì cộng sản chỉ làm say sai cho Liên Xô, Trung cộng để âm mưu nhuộm đỏ đất nước, làm đất nước suy yếu và dễ dàng giao cho Trung cộng theo từng bước. Nếu Việt Nam chúng ta thống nhất trong hòa bình thì với bản chất láo, lừa, đảng cộng sản không bao giờ đủ uy tín, tài đức để nhân dân bầu chọn. Vì vậy ông Hồ đã thực hiện cho được âm mưu của Trung cộng để "thống nhất" trong bạo lực dẫn đến cái chết của hàng triệu thanh niên hai miền một cách vô nghĩa. Hậu quả thì đến nay nhân dân vẫn đang ngày đêm gánh chịu.

Tôi viết bài này chỉ là sự khẳng định thêm mục đích của đảng cộng sản không phải là "giải phóng" cũng như "thống nhất" đất nước gì cả. Họ chỉ dùng biện pháp xảo ngôn để biện minh cho âm mưu đen tối của mình với nhân dân Việt Nam. Đã đến lúc những người tự cho mình là "nhân sỹ trí thức, lão thành cách mạng, có công với đảng..." hãy nhìn nhận lại sự việc "thống nhất" một cách rõ nét và thẳng thắn nhất để thấy chính họ bị đảng cộng sản mà đứng đầu là ông Hồ lừa dối. Những gì họ đang ân hưởng từ ân huệ của đảng cộng sản không phải là ân huệ mà đại bộ phận nhân dân được hưởng. Những ân hưởng đó như một thứ để lấy lòng, để che mắt các vị gọi là "nhân sỹ trí thức XHCN, lão thành cách mạng" mà thôi!.

Đằng nào thì cũng đã "thống nhất" bằng đổ máu rồi, đằng nào thì nhân dân và các vị "lão thành cách mạng, nhân sỹ XHCN" cũng bị đảng "XẢO NGÔN" lừa dối rồi. Bây giờ không phải lúc kêu than đảng sửa sai, van xin đảng thay đổi vì đảng cộng sản không thể thay đổi. Và cũng vì chính danh dự của mình đã bị đảng, bị ông Hồ lợi dụng, lừa đảo bao năm qua, tôi xin kêu gọi các vị hãy quay về với nhân dân để tranh đấu cho tự do, dân chủ thực sự tại Việt Nam. Chỉ có thế thì mới đúng với tinh thần dân tộc Việt Nam trường tồn. Đừng để đảng lừa nữa và cũng đừng để thế hệ con cháu như chúng tôi phải xấu hổ về những nhận thức ngây thơ, tự hào quá khứ "cách mạng" của các vị. Hãy để tinh thần dân tộc lên tiếng trong con tim các vị và hãy để cho chúng tôi thế hệ trẻ Việt Nam tôn trọng sự thật. Sự thật thì mất lòng, nhưng mất lòng mà nhận ra cái sai của lũ bán nước, để nhân dân cùng một lòng đứng lên dẹp bỏ nó thì cũng là việc nên làm.

Và cuối cùng xin chuyển thông điệp này đến với đảng cộng sản Việt Nam: Thống nhất ư? Các vị đừng xảo ngôn!


11/12/2012
Đặng Chí Hùng
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Sự Thật Phơi Bày

Post by uncle_vinh »

Hãy nói trước ngày chết
Trần Trung Đạo (Danlambao) -

Trong lịch sử nhân loại, không có một chủ nghĩa nào tàn bạo hơn chủ nghĩa Cộng Sản. Từ khi Tuyên ngôn đảng cộng sản ra đời năm 1848 cho đến khi bức tường Bá Linh bị đập đổ vào 1989, khoảng gần 100 triệu người từ nhiều quốc gia đã bị giết. Hơn hai mươi năm qua, mặc dù ngọn lửa vô thần đã tắt trên phần lớn quả địa cầu, một góc trời phương đông lửa vẫn còn đỏ rực, nhà tù vẫn còn giam giữ nhiều người bất đồng với chế độ độc tài toàn trị và tự do vẫn là một bóng mây xa.

Image

Người đời có thói quen kết án Stalin đã gây ra tội ác tày trời đối với nhân dân Liên Xô, Mao Trạch Đông đã giết trên 30 triệu nhân dân Trung Quốc và Pol Pot tiêu diệt một phần tư dân tộc Khmer bằng súng và cả bằng dao phay, cán cuốc. Những chuyện đó ngày nay nhân loại đều biết và tội ác của chúng không còn là vấn đề tranh cãi nữa. Tuy nhiên, làm thế nào một nông dân có gốc gác bình thường, nếu không muốn nói là hiền lành như Mao lại có thể trở thành sát nhân của mấy chục triệu dân Trung Quốc? Làm thế nào Pol Pot, con của một điền chủ giàu có, được gởi sang Pháp ăn học, được bạn bè nhớ lại như một người nhã nhặn, lịch sự và được gọi là trí thức trong xã hội Khmer còn chậm tiến lúc bấy giờ, nhưng sau khi nắm chính quyền đã giết hai triệu dân Khmer bằng búa, dao và những cách giết người tàn bạo hơn cả trong thời Trung Cổ?

Bởi vì chủ nghĩa Cộng Sản trang bị cho chúng một quyền lực tuyệt đối, một niềm tin cuối cùng, một lối thoát tinh thần, một chỗ dựa lý luận để giải thích cho hành động bất nhân của chúng. Nuon Chea, người đứng hàng thứ hai của chế độ Khờ Me Đỏ chỉ sau Pol Pot, lạnh lùng trả lời báo chí, những kẻ bị giết chỉ vì “họ là kẻ thù của nhân dân”. Đơn giản vậy thôi. Chúng ăn rất ngon và ngủ rất yên dù sau một ngày ký hàng loạt bản án tử hình.

Giết một vài đối thủ thì không sao nhưng để loại bỏ hàng triệu người là chuyện khác. Stalin không thể lên tận các trại lao động khổ sai ở Siberia để bỏ đói những người chống đối y. Mao Trạch Đông không thể xuống từng trường học để tra tấn các thầy cô trong Cách Mạng Văn Hóa, Hồ Chí Minh không thể đích thân xử bắn bà Nguyễn Thị Năm trong Cải Cách Ruộng Đất. Nhưng họ có khả năng huấn luyện, đầu độc một thế hệ đao phủ thủ trẻ tuổi hăng say và cuồng tín để làm thay. Quyền lực đặt vào tay đám đao thủ phủ trẻ này chẳng khác gì con dao bén để chúng thanh toán những mối thù riêng và lập công dâng Đảng.

Tháng 10 năm 2002, nhà báo Mỹ Amanda Pike đến Campuchia để tìm hiểu nguyên nhân tội ác diệt chủng của Pol Pot đã không được làm sáng tỏ. Amanda Pike phỏng vấn bà Samrith Phum, người có chồng bị Khờ Me Đỏ giết. Theo lời kể của bà Samrith Phum, vào nửa đêm năm 1977 chồng bà bị một Khờ Me Đỏ địa phương bắt đi và giết chết vì bị cho là “gián điệp CIA”. Hung thủ chẳng ai xa lạ mà là người cùng làng với bà Samrith. Hiện nay, kẻ giết người vẫn còn sống nhởn nhơ chung một làng với bà cách thủ đô Nam Vang vài dặm nhưng không một tòa án nào truy tố hay kết án.

Với chủ trương “Dân tộc Khờ Me cần đào hố để chôn đi quá khứ” Hun Sen đã cản trở Liên Hiệp Quốc rất nhiều trong việc điều tra tội diệt chủng của chế độ Pol Pot. Hun Sen cản trở vì bản thân y cũng từng là một sĩ quan Khờ Me Đỏ. Hun Sen nhiệt tình với lý tưởng CS đến mức bỏ học theo Pol Pot khi còn trong tuổi thiếu niên. Nhiều chi tiết trong quảng thời gian từ 1975 đến 1979 của cuộc đời y vẫn còn trong vòng bí mật. Khi chôn quá khứ của Campuchia, Hun Sen muốn chôn đi quá khứ tội lỗi của mình.
Tình trạng kẻ sát nhân và gia đình những người bị sát hại vẫn còn sống chung làng, chung xóm, chung thành phố không chỉ phổ biến tại Campuchia nhưng cũng rất phổ biến tại Huế sau vụ Thảm sát Tết Mậu Thân 1968.

Số người bị giết trong vụ Thảm sát Tết Mậu Thân khác nhau tùy theo nguồn điều tra nhưng phần lớn công nhận số người bị giết lên đến nhiều ngàn người và “kẻ thù nhân dân” không chỉ là công chức chính quyền VNCH mà còn rất đông sinh viên, học sinh, phụ nữ, trẻ em và ngay cả một số giáo sư ngoại quốc. Ông Võ Văn Bằng, Nghị viên tỉnh Thừa Thiên và cũng là Trưởng Ban Truy Tìm và Cải Táng Nạn Nhân Cộng Sản Tết Mậu Thân, kể lại: “Các hố cách khoảng nhau. Một hố vào khoảng 10 đến 20 người. Trong các hố, người thì đứng, nào là nằm, nào là ngồi, lộn xộn. Các thi hài khi đào lên, thịt xương đã rã ra. Trên thi hài còn thấy những dây lạt trói lại, cả dây điện thoại nữa, trói thành chùm với nhau. Có lẽ, họ bị xô vào hố thành từng chùm. Một số người đầu bị vỡ hoặc bị lủng. Lủng là do bắn, vỡ là do cuốc xẻng.”

Tài liệu liên quan đến Thảm sát Tết Mậu Thân rất nhiều, từ điều tra của các nhà nghiên cứu nước ngoài cho đến các nhân chứng sống Việt Nam. Đến nay, thành phần được nghĩ đã gây ra biến cố đầy tang thương cho dân tộc Việt Nam này là những người Huế “nhảy núi”. Họ là những người bỏ trường, bỏ làng xóm, bỏ cố đô lên rừng theo CS và Tết Mậu Thân đã trở lại tàn sát chính đồng bào ruột thịt của mình. Họ là những kẻ vừa được giải thoát khỏi nhà giam Thừa Phủ đưa lên núi huấn luyện vài ngày rồi trở lại giết chết những kẻ bị nghi ngờ đã bỏ tù họ. Không giống quân đội chính quy tấn công Huế, những du kích nằm vùng, những thanh niên, sinh viên, học sinh là những người sinh ra và lớn lên ở Huế, thuộc từng tên phố tên đường, biết tên biết tuổi từng người. Họ lập danh sách và đến từng nhà lừa gạt người dân bằng cách “mời đi trình diện” rồi sẽ trả về nhà ăn Tết. Những người nhẹ dạ đi theo. Mà cho dù không nhẹ dạ cũng chẳng ai nghĩ mình sắp bị chôn sống chỉ vì làm chức liên gia trưởng của năm bảy gia đình, ấp trưởng một ngôi làng nhỏ, xã trưởng của vài trăm dân. Kết quả, từng nhóm, từng đoàn người lần lượt bị đem ra “tòa án nhân dân” và kết án tử hình.

Người “nhảy núi” nổi tiếng nhất là Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Ngày 12 tháng 7 năm 1997, Hoàng Phủ Ngọc Tường trả lời câu hỏi của nhà văn Thụy Khuê về sự liên quan của ông đối với vụ Thảm sát Tết Mậu Thân: “Sự thực là tôi đã từ giã Huế lên rừng tham gia kháng chiến vào mùa hè năm 1966, và chỉ trở lại Huế sau ngày 26 tháng 3 năm 1975. Như thế nghĩa là trong thời điểm Mậu Thân 1968, tôi không có mặt ở Huế” và ông cũng thừa nhận Thảm sát Tết Mậu Thân là có thật chứ chẳng phải “Mỹ Ngụy” nào dàn dựng “Điều quan trọng còn lại tôi xin ngỏ bầy ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi và trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng”.

Khi được hỏi ai là những người phải chịu trách nhiệm, Hoàng Phủ Ngọc Tường phát biểu “Nhưng tôi tin rằng đây là một sai lầm có tính cục bộ, từ phía những người lãnh đạo cuộc tấn công Mậu Thân ở Huế” và tiếp tục nêu thêm chi tiết chính Đại tá Lê Minh, tư lệnh chiến dịch Huế Mậu Thân thừa nhận trong tạp chí Sông Hương “Dù bởi lý do nào đi nữa, thì trách nhiệm vẫn thuộc về những người lãnh đạo mặt trận Mậu Thân, trước hết là trách nhiệm của tôi.”

Tóm lại, Hoàng Phủ Ngọc Tường trong buổi phỏng vấn dành cho nhà văn Thụy Khuê xác nhận ông ta không có mặt ở Huế trong suốt thời gian Huế bị CS chiếm đóng và những kẻ sát hại thường dân vô tội là do các “lãnh đạo cuộc tấn công Mậu Thân ở Huế” chủ trương.

Tuy nhiên 15 năm trước đó, ngày 29 tháng 2 năm 1982, trong buổi phỏng vấn truyền hình dài 15 phút dành cho hệ thống WGBH, Hoàng Phủ Ngọc Tường thừa nhận việc dư luận đang tố cáo ông là đúng, nghĩa là chính ông đã có mặt tại Huế: “Tôi đã đi trên những đường hẻm mà ban đêm tưởng là bùn, tôi mở ra bấm đèn lên thì toàn là máu... Nhất là những ngày cuối cùng khi chúng tôi rút ra...” và ông cho rằng một số người dân Huế chết thảm thương là do sự trả thù của chính người Huế với người Huế “chính nhân dân đã căm thù quá lâu, đó là những người đã bị chính nó tra tấn, chính nó đã làm cho tất cả gia đình phải bị đi ở tù ra ngoài đảo v.v... và đến khi cách mạng bùng lên họ được như là lấy lại cái thế của người mạnh thì họ đi tìm những kẻ đó để trừ như là trừ những con rắn độc mà từ lâu nay nếu còn sống thì nó sẽ tiếp tục nó gây tội ác trong chiến tranh.”

Nếu phân tích theo thời gian và diễn biến chính trị thế giới, đặc biệt sự sụp đổ của phong trào CS quốc tế, câu trả lời của Hoàng Phủ Ngọc Tường vào năm 1982 là thành thật và sát với thực tế Mậu Thân nhất. Trong giai đoạn chuyên chính vô sản vài năm sau 1975, không chỉ ông ta mà cả các lãnh đạo CSVN vẫn nghĩ “con đường tất yếu” là con đường “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Không có một thế lực nào cản trở sức chảy của “ba dòng thác cách mạng”. Vào thời điểm 1982, Hoàng Phủ Ngọc Tường chẳng những không sợ gì phải che giấu mà còn xem đó như một thành tích cần được nêu ra. Xem đoạn phim, khuôn mặt Hoàng Phủ Ngọc Tường đằng đằng sát khí khi diễn tả việc giết một viên chức VNCH: “chỉ lấy lại mạng sống của một người, giá đó rất nhẹ và công bằng”.
Thái độ đó hoàn toàn khác với giọng ôn tồn khi ông ta nhắc lại lời của Đại tá CS Lê Minh như thay cho chính mình 15 năm sau “bây giờ, là những người lãnh đạo kế nhiệm ở Huế, phải thi hành chính sách minh oan cho những gia đình nạn nhân Mậu Thân, trả lại công bằng trong sáng và những quyền công dân chính đáng cho thân nhân của họ”. Thời gian đổi thay, lịch sử đổi thay và con người cũng thay đổi. Không phải chỉ Hoàng Phủ Ngọc Tường mà cả những cựu lãnh đạo CS Đông Âu, một thời giết người không chút xót thương, sau 1990 cũng trả lời báo chí với giọng ngọt ngào như thế.

Nhiều bạn hữu của Hoàng Phủ Ngọc Tường như tác giả Ngô Minh viết trên talawas 2008, cho rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường “trong suốt những năm lên “xanh” ở A Lưới, Hoàng Phủ Ngọc Tường không được phân công về thành phố hay đồng bằng một chuyến nào cả” mà không biết hay cố tình bỏ qua sự kiện 26 năm trước chính Hoàng Phủ Ngọc Tường đã xác nhận mình ở Huế với những tình tiết mắt thấy tai nghe của một người trong cuộc.

Hai buổi trả lời phỏng vấn hoàn toàn trái ngược chứng tỏ Hoàng Phủ Ngọc Tường phải có một khó khăn để giải thích sự liên hệ của mình đến vụ Thảm sát Mậu Thân. Lời phát biểu của ông cho thấy một điều, ngoại trừ trẻ em quá nhỏ, những người bị giết chắc chắn biết người giết mình là ai.
Không giống Hoàng Phủ Ngọc Tường mâu thuẫn, hai ông Nguyễn Đắc Xuân và Hoàng Phủ Ngọc Phan từ trên núi theo đoàn quân CS đánh vào Huế. Hai ông không từ chối điều này nhưng đều phủ nhận đã có liên hệ gì với Thảm sát Mậu Thân. Trong bài viết Nhân đọc bài "Trịnh Công Sơn - Những hoạt động nằm vùng” Hoàng Phủ Ngọc Phan khẳng định: “Còn tôi thì có theo chiến dịch về hoạt động ở Thành nội Huế nhưng tôi không hề giết ai cả, suốt gần 10 năm đi kháng chiến cũng không hề làm thiệt mạng một con thú trên rừng chứ đừng nói là con người.”

Nhà văn Nhã Ca kết án ông Nguyễn Đắc Xuân trong Giải Khăn Sô Cho Huế vì đã “đích tay đào một cái hố, bắt một bạn học cũ có xích mích từ trước ra đứng bên hố để xử tử” và ông Nguyễn Đắc Xuân đáp lại trong bài Hậu Quả Của “Cái Chết” của tôi: “Còn tôi, một sinh viên Phật tử mới thoát ly chưa đầy một năm rưởi, không có quyền hành gì, nếu tôi muốn làm những việc như Nhã Ca viết thì cũng không thể làm được. Không ai cho tôi làm. Nếu tôi tự ý làm, làm sao tôi có thể thoát được sự phê phán của đồng chí đồng sự của tôi, đặc biệt là những người sau nầy không còn đứng trong hàng ngũ kháng chiến nữa...”

Chuyện “thoát ly chưa đầy một năm rưỡi” không chứng minh được ông ta không có quyền giết người, trái lại cũng có thể giải thích ngược, càng tham gia trễ càng phải chứng tỏ nhiệt tình cách mạng cao độ, càng phải giết nhiều người, càng phải lập nhiều công. Nói thế không phải để đánh bồi thêm một người đã ngã nhưng cho thấy lời biện bạch của ông không thuyết phục.

Trong tinh thần “Lợi ích của sự ngờ” (Benefit of the doubt), tạm cho những lời người khác kể về các ông chưa đủ bằng chứng kết tội, tuy nhiên, các ông Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Đắc Xuân, những thành viên tích cực của phong trào đấu tranh đô thị, hoạt động 26 ngày trong lòng thành phố Huế bị rơi vào tay các ông với nhiều ngàn người dân vô tội bị giết bằng những cách dã man hơn cả bọn diệt chủng Pol Pot mà các ông nói rằng không biết gì, không thấy gì thì trẻ con ngây thơ cũng không tin được.

Và không chỉ ba ông Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan mà cả thế hệ “nhảy núi” ở Huế trong đó rất nhiều nhà nghiên cứu văn hóa, nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ cho đến nay vẫn không biết gì, không thấy gì, không viết gì về Thảm sát Tết Mậu Thân thì quả là chuyện lạ. Hãy thử đặt mình trong vị trí của gia đình các nạn nhân vụ Thảm sát Huế, các ông có nghĩ rằng chính Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân đã giết hoặc biết chắc ai đã giết thân nhân các ông các không? Chắc chắn là có, không thể có lời giải thích thứ ba.

Lẽ ra Thảm sát Tết Mậu Thân phải là nguồn thôi thúc cho nhiều tác phẩm văn học lớn nói lên sự đau khổ, sự chịu đựng tận cùng của đồng bào Huế nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Lẽ ra những người đang bị dư luận kết án, nếu thật sự không tham dự vào cuộc tàn sát, thay vì than mây khóc gió trong văn chương hay lao đầu vào cơm áo, nên dành phần còn lại của đời mình đi tìm cho ra cội nguồn gốc rễ để vừa giải oan cho đồng bào mà cũng minh oan cho chính mình. Gia đình nạn nhân còn đó, nhân chứng còn đó, hầm hố còn đó, bạn bè còn đó, chứng tích còn đó, chế độ còn đó. Có thể người đọc vì sự công phẫn chưa nguôi, sẽ không tin hết các điều các ông các bà viết nhưng nếu đúng rồi lịch sử sẽ tin. Nếu không làm thế, cơ chế độc tài này chắc chắn sẽ tàn lụi nhưng tên tuổi Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Thị Đoan Trinh v.v... mãi mãi vẫn là những dấu đen ngàn đời không phai.

Dư luận khắt khe nhưng không bất công. Suốt 42 năm, các ông các bà có rất nhiều cơ hội để làm sáng tỏ một sự kiện lịch sử mà các ông các bà từng tham dự, nhưng ngoại trừ việc phải trả lời vài buổi phỏng vấn rải rác đó đây, các ông các bà im lặng. Kết án lại những người kết án không phải là cách trả lời mà nhân dân Việt Nam đang muốn biết. Ông Nguyễn Đắc Xuân được gọi là “nhà Huế học” nhưng Huế không chỉ có sông Hương, núi Ngự, lăng tẩm, đền đài mà còn có Bãi Dâu, Khe Đá Mài, khu Gia Hội và hàng chục ngôi mồ tập thể khác. Đời sống của một dân tộc không chỉ gồm những thời đẹp đẽ, vinh quang mà còn cả những giai đoạn đau buồn, tủi nhục. Tại sao các ông các bà không viết? Phải chăng những người “nhảy núi” ở Huế cũng giống như Hun Sen hay tên Khờ Me Đỏ giết chồng bà Samrith Phum năm 1977, đang cố chôn đi quá khứ? Sự im lặng của các ông các bà không phải là một công án thiền mà là lời tự tố cáo lớn tiếng nhất.

Dân tộc Việt Nam đã trải qua nhiều thời kỳ suy vi và phân hóa nhưng sự kiện một số người dã tâm tàn sát nhiều ngàn người Việt khác trong chỉ vài tuần bằng các phương tiện phi nhân chưa từng có như ở Huế là lần đầu. Vết thương Mậu Thân sẽ không bao giờ lành một khi tội ác chưa được đưa ra ánh sáng. Nền tảng của hòa giải là công lý và sự thật chứ không phải che đậy và lãng quên.

Nhiều tác giả đã viết về Thảm sát Mậu Thân. Những dữ kiện trong bài viết này không có gì mới mà đã được nhắc đi nhắc lại. Dụng ý của kẻ viết bài này chỉ muốn nhấn mạnh một điều rằng, nhiều trong số những người “nhảy núi” còn sống ở Huế hay trong và cả ngoài nước, nhưng chắc không sống bao lâu nữa. Tuổi tác của các ông các bà đều trên dưới bảy mươi. Thời gian còn lại như tiếng chuông ngân đã quá dài. Tất cả sẽ là không. Các ông các bà ra đi không mang theo gì cả nhưng sẽ để lại rất nhiều. Vẫn biết con người khó tự kết án chính mình nhưng các ông, các bà vẫn còn nợ dân tộc Việt Nam, nhất là các thế hệ mai sau, câu trả lời cho cái chết của nhiều ngàn dân Huế vô tội.

Ngọn nến trước khi tắt thường bật sáng, vì tương lai dân tộc, các ông các bà hãy sáng lên sự thật một lần trước ngày chết.


Trần Trung Đạo
danlambaovn.blogspot.com
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Sự Thật Phơi Bày

Post by uncle_vinh »

34 Năm sau “Giải Phóng”

Đỗ Thái Nhiên

Theo nghĩa thông thường, “giải phóng” là cởi trói, là thay đổi hoàn cảnh sống theo hướng làm cho đời người trở nên êm ả hơn, hạnh phúc hơn. Tuy nhiên, sau 30/04/1975, người Việt Nam, đặc biệt là những người sanh sống tại miền Nam Việt Nam trước 1975. ngày càng tỏ ra hoài nghi về ý nghĩa của hai chữ “giải phóng” do chế độ Hà Nội sử dụng.

Ngay giữa Saigon, đầu năm 1976, nhạc sĩ Nhật Ngân là người đầu tiên đặt dấu hỏi về hồ sơ giải phóng. Dấu hỏi kia được gói ghém trong nhạc phẩm “Anh Giải Phóng Tôi Hay Tôi Giải Phóng Anh?”. Sau dấu hỏi của Trần Nhật Ngân, mọi người nhanh chóng nghiệm ra rằng: Đối với CSVN, “giải phóng” có nghĩa là cưỡng bách nhân dân phải từ bỏ thiên đàng để nhảy xuống hoả ngục. Bây giờ, 34 năm đã trôi qua, chúng ta có thừa bình tĩnh để suy nghĩ về “cơn đau giải phóng”. Sau đây là những tình huống “bị” giải phóng điển hình:

Nạn nhân đầu tiên của hành động “giải phóng “ lại chính là con đẻ của Bắc Kinh và Hà Nội. Đó là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam. Thực vậy, sau khi chiếm được Miền Nam Việt Nam, Hà Nội vội vàng “giải phóng” Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam ra khỏi sân khấu chính trị Việt Nam. Nói cách khác Hà Nội đã giải tán MTGPMNVN không trống, không kèn, không một lời cảm ơn, không một lễ hạ cờ. Kế tiếp màn giải-phóng-Mặt-Trận-Giải-Phóng là sự việc hàng loạt cán bộ Hà Nội được tung ra để chiếm giữ vị trí lãnh đạo, đồng thời cũng là vị trí tham ô từ trong Nam ra tới ngoài Bắc, từ xã ấp lên tới trung ương. Đó là ý nghĩa của tình đồng chí giữa Cộng Sản Bắc và Cộng Sản Nam.

Bây giờ chúng ta hãy xét tới mối “liên hệ giải phóng” giữa đảng CSVN và đất nước Việt Nam. Đất nước ở đây gồm nhân dân và lãnh thổ.

“Giải phóng” nhân dân Việt Nam

Sau 1975, đối với nhân dân Miền Nam Việt Nam, CSVN đánh các đòn giải phóng sau đây: giải phóng khỏi đời sống tự do để đưa vào những nhà tù khổ sai dưới mỹ danh “học tập cải tạo”. Giải phóng khỏi những ngôi nhà khang trang để “tự giác” tìm tới vùng kinh tế mới. Giải phóng khỏi quê hương thân yêu để trôi dạt tới những vùng đất tạm dung nằm rải rác khắp năm châu. Người Việt sinh sống tại hải ngoại khoảng 3 triệu người. Người Việt gục ngã trên đường vượt biên khoảng 500 ngàn người. Từ 1975 cho tới 1985 những người vượt biên bị gọi là phản quốc, bị đẩy ra biển trong chương trình vượt biên bán chính thức, vượt biên bất chấp những an toàn tối thiểu của những chuyến đi biển… Mặc dầu bị đối xử tàn tệ như vừa kể, lòng yêu gia đình, yêu quê hương hối thúc người Việt hải ngoại gửi tiền về trong nước ngày càng nhiều. Khối tiền to lớn kia đã che khuất hai chữ “phản quốc”. Người Việt hải ngoại được Hà Nội xảo trá tặng cho danh hiệu “những khúc ruột ngàn dặm của tổ quốc”. Rõ ràng là CSVN bất chấp liêm sỉ, sẵn sàng nói ngọt với người Việt hải ngoại chỉ để tiếp tục “giải phóng” túi tiền của những người trước kia đã bị CS ra tay hành hạ ở mức độ hiểm ác nhất. Đối với khúc-ruột-ngàn-dặm “moi tiền” là mục đích chính. Đối với đồng bào sống ngay tại quốc nội CSVN đã đối xử ra sao?

Trước tiên, hãy nói tới “Mẹ chiến sĩ”. Mẹ ở đây là những người đã dày công bảo bọc, che chở, tiếp tế cơm gạo cho đám cán binh Việt Cộng trong thời kỳ CSVN phải sống chui rúc ở hốc núi, hầm đất cùng đủ loại địa đạo… Ngày nay đám “con chiến sĩ” đã có quyền lực đầy mình, tiền bạc đầy túi. Thay vì đền đáp công ơn Trời Biển của Mẹ, đám con tai quái kia lại quay ra “giải phóng” nhà, “giải phóng” ruộng vườn của Mẹ và của vô số đồng bào khác. Công viêc “giải phóng” yêu ma kia đã tạo ra tại Việt Nam một giai cấp mới: giai cấp dân oan.

Giai cấp dân oan cộng với nông dân thất nghiệp phải chạy vào thành phố kiếm sống, cộng với giới phụ nữ chấp nhận “lấy chồng ngoại” để có được cơm áo cho gia đình, cộng với đông đảo nam nữ thanh niên sẳn sàng bán bắp thịt trong những chương trình “xuất khẩu lao nô”, cộng với khối quần chúng lớn lao không có cơ hội đi học, không có nghề nghiệp chuyên môn…Các bài toán cộng vừa nêu dẫn tới nhận định rằng: hầu hết lực lượng lao động của xã hội Việt Nam ngày nay chỉ có thể là lao động chân tay. Lao động kiểu này gọi là lao động “tay làm, hàm nhai”. Lợi tức của “lao động tay làm hàm nhai” gọi là lợi tức cơm chim. Thế nhưng, ngay cả cơm chim của nhân dân cùng khổ cũng bị CSVN tận tình “giải phóng”.

Thực vậy, thời gian gần đây, dưới danh nghĩa cờ bauxite và cờ công tác xây dựng, CSVN vừa miễn thuế kinh doanh cho Trung Quốc, vừa mời gọi Trung Quốc tự do mang dân Tàu vào Việt Nam làm việc tại những nơi Trung Quốc trúng thầu, gọi là tụ điểm Tàu. Do được miễn thuế kinh doanh, Trung Quốc trở thành quốc gia độc quyền trúng thầu tại Việt Nam. Vì vậy, hiện nay từ Bắc chí Nam của lãnh thổ Việt Nam tràn ngập tụ điểm Tàu. Mỗi tụ điểm Tàu có trên dưới 2000 dân Tàu, hầu hết chuyên làm lao động tay chân. Đó là lý do giải thích tại sao giới lao động chân tay người Việt bị thất nghiệp và cơm chim của giới này đã bị người Tàu “giải phóng” với sự hỗ trợ tích cực của nhà cầm quyền Hà Nội.

Như vậy là dạ dày của người dân đã trống rỗng. Liệu chừng có hay không hiện tượng rằng: bên trên cái dạ dày lép kẹp là quả tim và bộ óc hừng hực chống Tàu? Chính vì lo sợ lòng căm thù Tàu trong mỗi người Việt dâng cao, ngày 03/04/2009, chính phủ CSVN đã ký ban hành công văn số 1992/VPCP-QHQT cho phép thành lập học viện Khổng Tử tại Việt Nam. Tư tưởng Khổng không có tiền đề triết học, không có qui luật triết hoc. Nó không là tư tưởng biện chứng. Nó bao gồm những bài học rời rạc của Khổng Tử. Những bài học rời rạc kia khi đi vào thực tiễn đời sống của người Trung Quốc, người đời nhìn ra ba trọng điểm:

Trong gia đình: Người cha là nhân vật tối cao. Vợ con chỉ là những người phải tuyệt đối tuân lệnh gia trưởng. Trọng nam, khinh nữ là chân lý không cần chứng minh. Biết bao nhiêu tỷ phụ nữ đã chết vì “chân lý” quái ác vừa kể. Khổng Tử và đệ tử của Khổng không thể đưa ra bất kỳ lời giải thích nào.

Trong xã hội quốc gia: Vua là tối cao. Vua nắm quyền sinh, sát toàn dân.

Trong bang giao quốc tế: Trung Quốc là nước vua. Những quốc gia chung quanh chỉ là nước tôi. Trung Quốc có toàn quyền tùy nghi bành trướng.

Ba trọng điểm nêu trên khi đã được nhồi nhét vào tim óc Việt Nam sẽ biến người Việt trở thành những nô lệ của Trung Quốc trên căn bản tư tưởng rằng:

Trung Quốc là nước vua, Việt Nam là nước tôi. Vì vậy, không còn nghi ngờ gì nữa, CS Hà Nội đang làm tay sai cho Trung Quốc trong nổ lực dùng viện Khổng Học để “giải phóng” TÍNH Việt và TÌNH Việt ra khỏi con người Việt Nam, thay vào đó là tâm lý an phận thủ thường. Thường ở đây là con người chấp nhận thân phận hèn mọn trước gia trưởng, trước Đức Vua và trước “Trung Quốc vĩ đại”,

“Giải phóng” lãnh thổ Việt Nam.

Câu chuyện cơm chim bị “giải phóng” đi kèm với sự việc tính Việt và tình Việt bị “giải phóng” cho thấy: Con người Việt Nam đang bị CSVN ra sức “giải phóng “ cả thể chất lẫn tinh thần. Từ đó, không cần tốn một viên đạn, người Tàu đã nghiểm nhiên tràn ngập lãnh thổ Việt Nam. Bây giờ hãy bàn tới biên giới và hải giới. Tất cả người Việt Nam đều còn nhớ năm 1999 và 2000 CSVN ký hiệp ước dâng đất, hiến biển cho Trung Quốc. Từ đó hai hiệp ước kia, đặc biệt là bản đồ biên giới Việt Hoa bị CSVN triệt để giấu kín.

Ngày 29/03/2009, trong Lời Kêu Gọi “Bất Tuân Dân Sự”, Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ yêu cầu chế độ Hà Nội hãy khai trình với Liên Hiệp Quốc thềm lục địa Việt Nam đúng theo đòi hỏi của luật biển 1982. Lời kêu gọi vừa nói có hậu ý tố cáo CSVN không dám lập hồ sơ khai trình bởi lẽ hầu hết thềm lục địa Việt Nam đã bị CSVN cống hiến cho Trung Quốc. Sự việc bản đồ biên giới bị giấu kín đi kèm với sự việc CSVN không dám làm thủ tục khai trình thềm lục địa cho thấy CSVN đã “giải phóng” đất đai và biển cả Việt Nam ra khỏi khối tài sản của tổ tiên để dâng cúng cho Trung Quốc.

Nói tóm lại, sau 34 năm cướp quyền cai trị đất nước, cái gọi là công lao giải phóng dân tộc của chế độ Hà Nội bao gồm các điểm trọng yếu sau đây:

1.”Giải phóng” ba triệu đồng bào ra khỏi quê hương để sống cuộc đời tị nạn khắp năm châu.

2.”Giải phóng” “cơm chim” của tuyệt đa số nhân dân lao đông để mở đường cho nhiều vạn dân Tàu, lính Tàu vào Việt Nam kiếm sống bằng nghề lao động tay chân.

3.”Giải phóng” tính Việt, tình Việt ra khỏi tim óc Việt Nam để thay vào đó là tư tưởng Khổng với mục đích ngấm ngầm tạo hoàn cảnh tâm lý để người Việt Nam chấp nhận suy-nghĩ-kiểu-Tàu, sống-theo-trật-tự-Tàu. Trật tự gia trưởng. Trật tự trọng Nam, khinh Nữ. Trật tự vua tôi: vua là đảng, tôi là dân. Trật tự nước vua là Tàu, nước tôi là Việt.

4.”Giải phóng” đất Việt, biển Việt ra khỏi tầm tay Việt Nam để làm lễ vật triều cống cho vua Trung Quốc.

Bốn khối tội ác giải phóng kể trên đã biến đảng CSVN thành tên phản quốc lớn nhất trong thế giới của các loại phản quốc.


Đỗ Thái Nhiên
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Sự Thật Phơi Bày

Post by uncle_vinh »

“Hãy tôn trọng lịch sử” nhưng lịch sử nào?
Trần Trung Đạo (Danlambao)

Tôi chưa đọc Bên Thắng Cuộc đầy đủ để viết về tác phẩm này. Sách do một người em gởi từ California vẫn chưa đến. Có thể khi đọc xong cả hai cuốn, sẽ nhận xét Bên Thắng Cuộc với tư cách một người miền Nam đã sống những năm khắc nghiệt ở Sài Gòn, “sinh viên chế độ cũ”, đi kinh tế mới, vượt biển và trăn trở cùng đất nước. Bài viết này chỉ bàn đến luận điểm mà các báo lề đảng dùng khi viết về tác phẩm Bên Thắng Cuộc.

Hầu hết báo lề đảng đều đòi hỏi “Hãy tôn trọng lịch sử”, vâng, nhưng lịch sử nào?

Image

Một trong những đề án lớn của các quốc gia thuộc khối CS Liên Xô cũ không chỉ phục hồi kinh tế, ổn định xã hội sau gần 80 năm sống trong chế độ toàn trị kinh hoàng nhưng là viết lại lịch sử. Các nhà sử học Nga dành nhiều năm để đánh giá các sự kiện diễn ra từ thời Vladimir Lenin đến Mikhail Gorbachev và cho đến nay vẫn còn đang đánh giá. Nhiều chi tiết như các điều khoản bí mật trong hiệp ước Molotov-Ribbentrop, việc chiếm đóng các quốc gia vùng Baltic, sự giúp đỡ của đồng minh trong thế chiến thứ hai v.v... đã bị xóa trong sử CS. Một số sự kiện có nhắc đến nhưng lại cố tình viết sai thủ phạm như vụ tàn sát 22 ngàn sĩ quan Ba Lan tại Katyn vào tháng 3 năm 1940 được viết là Đức Quốc Xã chứ không phải do mật vụ Sô Viết hành hình. Không chỉ sử Nga mà cả lịch sử thế giới, sự sụp đổ của đế quốc La Mã, các hình thái kinh tế cũng được giải thích theo quan điểm CS.

Các nhà sử học Việt Nam trong tương lai cũng sẽ nhức đầu như thế. Lịch sử không có một dòng chảy chính thống và trong suốt qua các thời kỳ đất nước. Lịch sử Việt Nam từ năm 1954 ở miền Bắc và từ năm 1975 trên phạm vi cả nước là lịch sử của kẻ thắng trận, được giải thích theo quan điểm của kẻ thắng trận và để phục vụ cho mục đích của kẻ thắng trận. Lịch sử Việt Nam mà sinh viên học sinh đang học là lịch sử được phát ra từ cái loa, biểu tượng cho bộ máy tuyên truyền của chế độ, giống như cái loa mà Huy Đức có thể đã ám chỉ trong bìa sách Bên Thắng Cuộc.

Rất nhiều tranh luận về lý do tồn tại của chế độ CS tại Việt Nam. Trong cái nhìn của riêng tôi, chế độ CS tại Việt Nam chưa sụp đổ, không phải nhờ đổi mới kinh tế, ổn định xã hội nhưng chính là nhờ tác dụng của cái “loa lịch sử” đó. Đảng CS ít nhiều đã thành công trong việc che giấu được tội ác và khoát cho mình chiếc áo chính danh, chính nghĩa hay ít nhất không một thành phần dân tộc nào chính danh, chính nghĩa hơn đảng CS.

Đảng Cộng sản tại năm quốc gia sót lại từ phong trào CS quốc tế, đặc biệt Trung Quốc và Việt Nam đã pha chế chủ nghĩa Dân tộc vào chủ nghĩa Cộng sản thành một loại hợp chất gây mê man nhãn hiệu Dân tộc Xã hội chủ nghĩa. Đảng CS lý luận rằng họ ra đời để đáp ứng một nhu cầu lịch sử và, như một tác giả viết trong báo Pháp Luật, “những người cộng sản chỉ nối tiếp sứ mệnh mà lịch sử giao phó”. Lịch sử nào giao phó?

Chủ trương nhuộm đỏ Việt Nam của đảng CS rõ như ban ngày khi đẩy hàng triệu thanh niên miền Bắc mang súng đạn Nga Tàu vào cưỡng chiếm miền Nam. Pháp rút sớm hay rút muộn, Mỹ đến hay không đến cũng chẳng ảnh hưởng gì đến mục tiêu thiết lập một nhà nước CS trên toàn lãnh thổ Việt Nam nhất quán từ ngày thành lập đảng CS vào năm 1930. “Độc lập dân tộc”, “Thống nhất đất nước” chỉ là những chiêu bài. Nếu không dùng khẩu hiệu “Chống Mỹ cứu nước” bộ máy tuyên truyền tinh vi của đảng cũng thừa khả năng để nặn ra hàng trăm chiêu bài, khẩu hiệu hấp dẫn khác để kích thích và vận dụng lòng yêu nước. Bộ máy tuyên truyền của đảng nhồi nhét vào nhận thức của các thế hệ Việt Nam, nhất là thế hệ sinh ra và lớn lên sau cuộc chiến, rằng cuộc chiến tranh gọi là “Chống Mỹ cứu nước” trước 1975 là cuộc chiến chính nghĩa, “đánh Mỹ” là bước kế tục của chiến tranh chống Thực Dân Pháp. Đó là lý luận của kẻ cướp. Đảng CS không chỉ cướp đất nước mà cướp cả niềm tin và khát vọng của những người đã chết.

Như tôi đã viết trước đây, miền Nam có đàn áp chính trị nhưng cũng có đấu tranh chính trị, có ông quan tham nhũng nhưng cũng có nhiều phong trào chống tham nhũng hoạt động công khai, có ông tướng lạm quyền nhưng cũng có ông tướng trong sạch, có nghị gà nghị gật nhưng cũng có những chính khách, dân biểu, nghị sĩ đối lập chân chính. Xây dựng một xã hội dân chủ vừa bước ra khỏi phong kiến và thực dân là một tiến trình vinh quang nhưng cũng đầy trắc trở. Dân chủ ở miền Nam như một chiếc cây non lớn lên trong mưa chiều nắng sớm. Nhưng dù có khó khăn, tham nhũng thối nát bao nhiêu đi nữa, đó cũng là vấn đề riêng của Việt Nam Cộng Hòa không dính dáng gì đến đảng CS ở miền Bắc. Những ông như Trịnh Đình Thảo, Lâm Văn Tết có đủ không gian và phương tiện để đấu tranh một cách hợp pháp tại miền Nam cho một xã hội tốt đẹp hơn như hàng trăm chính khách quốc gia khác. Dĩ nhiên, họ có thể thất bại, bị tù đày và ngay cả bị giết nhưng vẫn là những người quốc gia chân chính. Tuy nhiên, khi tham gia Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam, chấp nhận làm công cụ cho đảng CS, họ đã tự chắt chiếc cầu biên giới giữa họ và nhân dân miền Nam.

Tác giả viết trong Sài Gòn Giải Phóng nhắc đến "10 cô gái Đồng Lộc” mà không biết rằng nếu có thể hiện hồn về, công việc đầu tiên của các cô chết trong hố bom Đồng Lộc là đi tìm lãnh đạo đảng CS để thanh toán cả vốn lẫn lời vì cái chết oan uổng của các cô chỉ để đổi lấy một đất nước nghèo nạn, lạc hậu, một chế độ độc tài, tham nhũng, phản văn minh tiến bộ như ngày nay.

Image

Tác giả trên báo Sài Gòn Giải Phóng cũng nhắc đến đến “nhà tù Côn Đảo”, “nghĩa trang Hàng Dương” làm tôi nhớ đến nơi này. Tôi cũng đã từng đến đó, không phải vì phải ở tù mà chỉ vì muốn biết một di tích lịch sử của dân tộc. Đảng xem nhà tù Côn Đảo như một “trường đại học CS”, tài sản riêng của đảng CS nhưng đừng quên nhà tù Côn Đảo do thực dân Pháp lập ra năm 1862 tức 68 năm trước khi đảng CS ra đời. Năm 1945, đảng CS ước lượng có khoảng 5 ngàn đảng viên. Cho dù thực dân Pháp bắt và đày nguyên cả đảng ra Côn Đảo cũng không thể so với số tù nhân thuộc các phong trào yêu nước khác. Với tôi, cuộc chiến chống thực dân Pháp là cuộc chiến chính nghĩa. Trong suốt gần một thế kỷ trong bóng tối thực dân, hàng vạn đồng bào thuộc nhiều thế hệ Việt Nam đã bị bắt, tra tấn và đã hy sinh trên Côn Đảo. Những đồng bào đã hy sinh trong cuộc chiến chống Thực Dân và bỏ xác trên đảo đều xứng đáng được tôn vinh.

Nếu họ đã từng là đảng viên Cộng sản thì sao? Không sao cả. Như tôi đã có dịp viết trong tiểu luận Từ buổi chiều trên nghĩa địa Hàng Dương, việc tham gia vào đảng Cộng sản của một số người Việt Nam, chủ yếu là để được tổ chức hóa nhằm mục đích hợp đồng chiến đấu, đạt đến chiến thắng dễ dàng hơn chứ không phải vì tin vào chủ nghĩa Cộng Sản. Ngày đó, vì điều kiện giao thông khó khăn, núi non cách trở, sự phát triển của các đảng phái chống thực dân ít nhiều bị giới hạn bởi các đặc tính địa phương, bà con giòng họ, hoàn cảnh trưởng thành. Nếu họ sinh ra ở Quảng Nam họ sẽ gia nhập Việt Nam Quốc dân Đảng, sinh ra ở Quảng Trị họ sẽ gia nhập Đại Việt, sinh ra ở Cần Thơ, Vĩnh Long, An Giang họ sẽ gia nhập Dân xã Đảng. Đó là trọng điểm của các đảng phái chống Pháp trong những thập niên đầu của thế kỷ 20. Những người Việt yêu nước thời đó chọn lựa đảng phái như chọn một chiếc phao để đưa dân tộc sang bờ độc lập. Những nông dân hiền hòa chất phác, những công nhân đầu tắt mặt tối làm sao biết được con đường họ đi không dẫn đến độc lập, tự do, hạnh phúc mà dẫn đến nghèo nàn, lạc hậu, độc tài và làm sao biết được chiếc phao họ bám cũng là chiếc bẫy buộc chặt chẳng những cuộc đời họ mà còn gây hệ lụy cho cả dân tộc đến ngày nay. Đảng Cộng sản như một tổ chức thì khác. Mục đích của đảng CS không chỉ nhuộm đỏ miền Nam, nhuộm đỏ Việt Nam mà còn nhuộm đỏ cả dòng lịch sử.

Tác giả viết trên báo Pháp Luật so sánh việc chính quyền miền Nam tra tấn các đảng viên CS và tù “cải tạo” sau 1975 khi kết án tác giả Bên Thắng Cuộc đã “Nhấn mạnh “chế độ hà khắc” của các trại cải tạo nhưng cuốn sách lại không nhắc đến những trại tù và cách ứng xử của chế độ Sài Gòn cũ đối với những người yêu nước.”

Image

Những kẻ ném lựu đạn vào nhà hàng, ám sát, đặt mìn trên quốc lộ 1, quốc lộ 4, đặt bom trong sân vận động, đốt chợ, đốt làng, giết người vô tội không phải tù chính trị hay tù binh chiến tranh mà chỉ là những tên khủng bố. Chúng là những kẻ yêu đảng chứ không phải là “những người yêu nước”. Bấm vào đây để xem các “chiến công hiển hách” của Biệt động thành Sài Gòn Gia Định khi ám sát hàng loạt “Mỹ ngụy” còn mặc tã ở nhà hàng Mỹ Cảnh. Tội ác giết phụ nữ trẻ em của chúng phải được xét xử theo đúng luật pháp. Điều đó đã và đang được áp dụng tại mọi quốc gia trên thế giới không riêng gì Việt Nam Cộng Hòa.

So sánh tù CS ở Côn Đảo và tù “cải tạo” là một cách so sánh vụng về và không cân xứng. Tổng số tù tại Côn Đảo khác nhau tùy theo bên nào tống kết, 5 ngàn theo con số của VNCH công bố và 17 ngàn theo con số của Hà Nội. Dù chọn con số 17 ngàn của đảng thổi phồng vẫn không thể so với hơn 200 ngàn công nhân viên chức và sĩ quan quân đội VNCH bị giam giữ trong 150 trại tù, đa số tận rừng sâu nước độc kéo dài từ 1975 đến 1992 mà chính Thủ tướng CS Phạm Văn Đồng thừa nhận. Các tổ chức quốc tế ước lượng cho đến 1982 số viên chức và sĩ quan VNCH bị giam giữ vẫn còn lên đến 300 ngàn người. Theo tổng kết của báo chí Mỹ, khoảng 165 ngàn người đã chết trong các trại tù CS. Ngoài ra, hàng triệu thân nhân, gia đình, con cái họ bị đày ra các vùng kinh tế mới, bị bạc đãi như nô lệ thời CS chỉ vì lý lịch VNCH.

Một điều quan trọng mà người dân miền Nam sẽ không bao giờ quên, không giống tù Côn Đảo xảy ra trong thời chiến, tội ác “tù cải tạo” vô cùng phi nhân đã được đảng thực thi sau khi đất nước đã hòa bình, sau khi Lê Duẩn ngọt ngào tuyên bố “chiến thắng này thuộc về nhân dân Việt Nam” và sau khi Trần Văn Trà, Chủ tịch Ủy ban Quân quản Sài Gòn Gia Định vuốt ve các viên chức VNCH còn trong Dinh Độc Lập “Nhân dân Việt Nam chính là người chiến thắng và chỉ đế quốc Mỹ mới thật sự là kẻ bại trận mà thôi.”

Phân tích như vậy để thấy lý luận trong bài viết trên báo Pháp Luật cho rằng cuộc chiến chấm dứt sáng 30-4-1975 “không phải là chiến thắng của một “bên thắng cuộc” hạn hẹp mà là chiến thắng của mọi người Việt Nam, trong đó cả những người từng ở phía bên kia” đúng là sản phẩm của chính sách tẩy não. Miền Nam sau 30-4-1975 là một nhà tù và nhân dân miền Nam là tù nhân dưới nhiều hình thức khác nhau.

Từ 1983, để tồn tại, đảng CS phải tự diễn biến hòa bình bằng cách mở thêm một vài ô cửa sổ cho gió vào nhưng thực chất đất nước vẫn còn bị bao bọc bằng bức tường dày bưng bít thông tin và một chế độ trấn áp không thua tiêu chuẩn một nhà tù khắt khe quốc tế nào. Lý thuyết Mác Lê có thể chỉ còn trong đầu môi chót lưỡi, trong các diễn văn, trong các bài ai điếu của các lãnh đạo đảng nhưng các phương tiện chuyên chính, toàn trị CS vẫn không khác gì nhiều so với thời triệt để cách mạng trước đây. Một nhạc sĩ trẻ Việt Khang chỉ viết hai bài hát chống Tàu bị kết án bốn năm tù. Một cô gái Đỗ Thị Minh Hạnh mới ngoài hai mươi tuổi, đấu tranh cho quyền lợi công nhân phù hợp với luật pháp của đảng CS quy định bị kết án bảy năm tù, một thanh niên trẻ Lê Sơn chỉ đưa tin tức các cuộc biểu tình chống Trung Quốc và chống khai thác Bauxite tại Tây Nguyên bị kết mười ba năm tù. Và hàng trăm, hàng ngàn người khác đã sống và đã chết, nhiều trường hợp rất âm thầm, trong nhà tù CS chỉ vì dám nói lên khát vọng dân chủ tự do.

Tác giả trên báo Sài Gòn Giải Phóng viết “Có thể lúc này lúc khác, Đảng có sai lầm. Cuộc sống khó khăn, đôi khi tôi cũng mất lòng tin vào đường lối của Nhà nước.” Hãy chỉ dùm tôi, không phải một năm, một tháng mà chỉ một ngày thôi đảng CS đã “lúc này lúc khác”. Bản chất của chế độ chưa hề thay đổi dù chỉ một giờ.

Lãnh đạo đảng có 38 năm để chọn một hướng đi phù hợp với trào lưu tiến hóa của nhân loại, có hàng trăm cơ hội để sửa sai nhưng họ không làm. Tất cả chính sách của đảng chỉ nhằm một mục đích duy nhất là củng cố quyền cai trị mặc cho dân tộc bị bỏ lại phía sau một đoạn đường quá xa so với đà tiến của nhân loại sau cách mạng tin học và toàn cầu hóa kinh tế cuối thập niên 1980. Tội ác của đảng với “tù cải tạo”, “kinh tế mới”, “đổi tiền”, “đánh tư sản”, có viết hàng tủ sách cũng không hết. Nỗi đau và sự chịu đựng vô bờ bến của nhân dân miền Nam nói riêng và cả nước nói chung, không thể nào diễn tả cạn dòng. Hàng ngàn câu chuyện thật đau lòng đã xảy ra trên con đường máu nhuộm Việt Nam sau 1975 và chỉ được phơi bày khi bức tường chuyên chính CS bị đạp đổ.

Có hai cách để đạp đổ bức tường chuyên chính. Thứ nhất, đi mượn một cái búa lớn của các cường quốc đem về đập phá bức tường và thứ hai xoi mòn bằng những bàn tay nhỏ Việt Nam kiên nhẫn. Sau 38 năm, những người đi tìm búa hoặc chết trên đường hoặc trở về không. Còn lại hôm nay là những bàn tay Việt Nam nhỏ nhoi. Bàn tay Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương, Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Công Định, Lê Quốc Quân, Đặng Xuân Diệu, Hồ Đức Hòa, Lê Văn Sơn và hàng ngàn người Việt Nam yêu nước khác. Dù đang ngồi trong bốn bức tường đen, họ mới chính là những người đang viết sử và thấy đâu là sự thật.


Trần Trung Đạo
danlambaovn.blogspot.com
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Sự Thật Phơi Bày

Post by uncle_vinh »

Cám ơn “Bên thắng cuộc”

Nguyễn Bá Chổi (Danlambao) - Nếu không có “Bên thắng cuộc” đưa “giang san về một một mối” thì làm gì có cảnh cả khối dân oan kéo nhau về “thủ đô của phẩm giá con người” và khắp mọi miền của nước CHXHCNVN để “khiếu kiện vì nhà cửa đất đai ruộng vườn bao đời nay bị “cưỡng chế” cướp trắng tay; đâu có đám sinh viên Sài Gòn ngày xưa xuống đường “chống Mỹ cứu nước” nay lại chưng hửng mất công xuống đường góp tiếng nói cảnh tỉnh có tác dụng hơn ai hết trước “đại cái lầm” về “Bên thắng cuộc”...

Image

*
Đối với “Bên Thắng Cuộc”, người viết (Bá Chổi) xin tự thú bản thân không thuộc phe chống như đỉa phải vôi vì chạm nọc từ Hà Nội, cũng chẳng đứng trong hàng ngũ chống khơi khơi “không cần biết Huy Đức viết cái chi chi”, mà chỉ vì cái tội của tác giả (Huy Đức) là xuất thân từ Bộ độ cu Hồ; người viết chỉ tự xếp hàng vào phe cám ơn “bên thắng cuộc”.

“Bên thắng cuộc”, đối tượng mà người viết muốn “xin nhận nơi này làm... cám ơn” tuy một tên gọi nhưng là hai.

Một là, cuốn sách mang tên “Bên Thắng Cuộc” của Huy Đức với nội dung của những sự thật “không thể chối cãi” vạch rõ mặt thật của giới lãnh đạo, những chuyện thâm cung bí sử trong chủ trương đường lối của đảng CSVN, bấy lâu nay được núp kín dưới đủ thứ phấn son mỹ miều mê tơi. Cái mặt nạ ấy đã bắt đầu bị nghi ngờ với cậu bé 13 tuổi Huy Đức sinh ra, được giáo dục trong cái nôi “Dân Khu Tư, quê Bác...” khi cậu bắt gặp những thứ lạ lẫm như con búp bê biết nhắm mở mắt của Miền Nam sau ngày “giải phóng”.

Người viết (Bá Chổi) vốn là một người lính VNCH trước ngày 30/4/1975, xin bày tỏ lòng cảm động khi đọc anh tác giả cựu Bộ độ cụ Hồ - Huy Đức thuộc “bên thắng cuộc”, tuyên xưng hành động tự sát của các vị tướng VNCH là “tuẫn tiết”.

Hai là, bên đã “đại thắng mùa xuân” 1975:

- Nếu không phỏng được Miền Nam, “bên thắng cuộc” đâu có phải khốn đốn như hôm nay, vì không những chỉ đồng bào Miền Nam mà cả hai miền đã “sáng mắt sáng lòng”, và chóp bu đảng đâu có phải gọi nhau bằng nào “đồng chí X”, nào “một bầy sâu”, nào là “một bộ phận không nhỏ bị mất lập trường, tự diễn biến..”, đấm đánh nhau chí chóe;

- Nếu không “đưa giang san về một một mối” thì làm gì có cảnh cả khối dân oan kéo nhau về “thủ đô của phẩm giá con người” và khắp mọi miền của nước CHXHCNVN để “khiếu kiện vì nhà cửa đất đai ruộng vườn bao đời nay bị “cưỡng chế” cướp trắng tay; đâu có đám sinh viên Sài Gòn ngày xưa xuống đường “chống Mỹ cứu nước” nay lại chưng hửng mất công xuống đường góp tiếng nói cảnh tỉnh có tác dụng hơn ai hết trước “đại cái lầm” về “Bên thắng cuộc”.

Lại nhớ lời tướng độc nhãn Do Thái Moshe Dayan khi thăm Sài Gòn trước 1975 rằng “muốn thắng Cộng Sản phải để CS chiếm Miền Nam”. Nay rõ ràng “bên thắng cuộc” đang té ra thua cuộc.

“Bên-Thắng-Cuộc-té-ra-là-thua-cuộc” nằm phơi trắng bụng giữa ban ngày ban mặt. Chỉ có kẻ mù mới không hay!

Image
Post Reply