Sự Thật Phơi Bày

Post Reply
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Sự Thật Phơi Bày

Post by uncle_vinh »

Nguỵ tạo bị bắt quả tang

Giấu đầu hở đuôi

Báo mạng DÂN TRÍ (trên danh nghĩa là của Hội khuyến học) ngày 9.10.2009 đưa tin "Bà Trần Khải Thanh Thủy bị bắt về tội Cố ý gây thương tích". Toàn bộ bản tin dựa vào lời của Đại tá Vũ Công Long, trưởng công an Quận Đống Đa (Hà Nội), và "theo hồ sơ Công an quận Đống Đa".

Như thế là bà Trần Khải Thanh Thuỷ, nhà văn tự do (năm 2007 đã bị bắt và kết án 9 tháng tù về tôi "gây rối trật tự công cộng", thực ra đây là một vụ án chính trị), bị đổ tội là : 20g30 tối 8.10 đã tiếp tay chồng (ông Đỗ Bá Tân) đả thương ông Nguyễn Mạnh Điệp : "Ông Tân đã dùng mũ bảo hiểm đập vào mặt ông Điệp." rồi "Bà Trần Khải Thanh Thủy thấy chồng va chạm với ông Điệp trước cửa nhà đã cầm gạch ném trúng gáy ông Điệp gây thương tích. Ông Nguyễn Văn Thịnh đi qua thấy xô xát vào can ngăn cũng bị Thủy dùng gạch ném trúng cánh tay. Tiếp đó, Thủy vào nhà lấy một cây gậy gỗ dài 102cm quay ra vụt vào tay và người ông Điệp, ông Thịnh. "

Báo Dân Trí đã đưa ảnh "ông Nguyễn Mạnh Điệp bị đánh vỡ đầu", góc dưới (bên phải, chữ đỏ) có ghi ngày 9 10 1009 :

Image
kèm đó là hình các tang vật (mũ bảo hiểm, gạch, gậy gỗ dài 102 cm) :

Image

Trong lúc bà Trần Khải Thanh Thuỷ còn bị giữ ở công an quận Đống Đa (tối 8.10), đài RFA đã phỏng vấn qua điện thoại di động và đưa tin "Vợ chồng nhà văn Trần Khải Thanh Thủy bị hành hung". Bà Thuỷ cho biết chính vợ chồng bà đã bị công an (mặc thường phục và đồng phục) hành hung ở trước cửa nhà trước khi đưa về đồn công an.

Hai lời kể trái ngược nhau, một bên là "công an của ta", một bên là "đài địch", khó biết đúng sai mà chỉ có thể phán đoán dựa trên sự tín nhiệm của người đọc đối với người kể. Khách quan mà nói, bên công an lại có "chứng nhân" (đồng thời là "nạn nhân") và tang vật, mặc dầu kinh nghiệm cho thấy cũng nên dè dặt đối với những chứng từ kiểu này. Đơn cử một việc : ông Nguyễn Mạnh Điệp bị đánh từ tối 8.10 (mặt, gáy, chảy máu hơi nhiều), tại sao không được cấp cứu và băng bó ngay, đến ngày 9.10 vẫn còn thấy vết thương toang hoác, chưa được chùi rửa ? Nhưng đó chưa thể là bằng chứng để nghi ngờ lời công an.

Mọi sự có thể ngừng ở đây, nếu không có sự nhạy bén của các bloggers trên thế giới sau khi bản tin Dân Trí được đưa lên mạng. Họ đã truy nguyên hai tấm hình trên và thấy rằng đó là những tấm hình chụp từ hơn 4 năm trước, chính xác là ngày 28.2.2005, lúc 11g22 :

Image

và máy chụp hình là máy SONY, kiểu DSC-W5 :

Image

Làm sao tìm ra nguồn gốc như vậy ? Đơn giản là các hình ảnh chụp bằng máy số không những chỉ ghi hình ảnh mà còn ghi cả những thông tin gọi chung là EXIF (thí dụ : ngày giờ chụp, máy chụp, độ nhạy, ánh sáng, tiêu cự...). Không cần phải dùng những chương trình tinh xảo, chúng tôi đã tìm ra ngày giờ và máy chụp bằng một phương pháp mà bạn đọc có thể thực hiện trong vòng vài phút : ghi lại tấm hình "ông Nguyễn Mạnh Điệp bi đánh vỡ đầu" chằng hạn vào máy tinh, bấm "chuột" (nút bên phải) và tấm hình, và chọn khung "propriétés", sẽ tìm ra ngay những thông tin nói trên.

Một thao tác đơn giản như vậy, hình như công an Quận Đống Đa không biết, hay quên mất, nên đã dùng tạm những tấm hình của ông Điệp nào đó bị ai đả thương từ năm 2005 !!! Nói như ông Đào Duy Quát, tổng biên tập báo mạng của Đảng cộng sản, đó lại là một "lỗi kĩ thuật".

Đại tá Vũ Công Long và thủ trưởng của ông, đại tướng Lê Hồng Anh, nói sao đây ?

B. L.
----------------------------------------------
Các bạn có thể đọc thêm:

Vụ bà TKTT “cố ý gây thương tích”
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Sự Thật Phơi Bày

Post by uncle_vinh »

GS. Phan Huy Lê lần đầu tiên công bố trên truyền thông nhà nước:

‘Anh hùng Lê Văn Tám’ hoàn toàn không có thật

Thursday, October 15, 2009
Khôi Nguyên/Người Việt


HÀ NỘI (NV)- Giáo Sư Phan Huy Lê, chủ tịch Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam, vừa lên tiếng chính thức trên truyền thông nhà nước và khẳng định rằng nhân vật “anh hùng Lê Văn Tám” là hoàn toàn không có thật.

Giáo Sư Phan Huy Lê công bố việc này trong một bài viết được đăng trên tạp chí Xưa và Nay của của Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam, số ra Tháng Mười, năm 2009.Bài viết sau đó được báo Khoa Học và Ðời Sống (www.bee.net.vn) đưa lên mạng vào ngày 14 Tháng Mười, năm 2009, với tựa đề “GS Phan Huy Lê: Trả lại sự thật hình tượng Lê Văn Tám.”

Ðây được coi là lần đầu tiên Giáo Sư Phan Huy Lê lên tiếng về sự kiện này trên một cơ quan truyền thông chính thức của nhà nước Việt Nam.

Cách đây hơn 4 năm, trên báo Người Việt số ra ngày 19 Tháng Ba, 2005, lần đầu tiên Giáo Sư Phan Huy Lê đã bạch hóa việc nhân vật “anh hùng Lê Văn Tám” là không có thật. Trả lời phỏng vấn, Giáo Sư Phan Huy Lê nói rằng, “trong một dịp thuận tiện” ông sẽ công bố sự kiện này trên truyền thông tại Việt Nam.

Sau khi đọc được bài viết trên trang mạng www.bee.net.vn, nhật báo Người Việt đã gọi điện về Hà Nội hỏi chuyện Giáo Sư Phan Huy Lê, tuy nhiên ông đang đi công tác tại Hải Phòng nên không liên lạc được.

Trong bài viết trên tạp chí Xưa và Nay, Giáo Sư Phan Huy Lê nhấn mạnh khi giải thích về nhân vật Lê Văn Tám, rằng: “Theo quan điểm của tôi, mọi biểu tượng hay tượng đài lịch sử chỉ có sức sống bền bỉ trong lịch sử và trong lòng dân khi được xây dựng trên cơ sở khoa học khách quan, chân thực.”

Tưởng cũng xin nhắc lại về nhân vật anh hùng Lê Văn Tám: Bất cứ ai đã từng là học trò tại miền Bắc Việt Nam những năm trước 1975 và cả Việt Nam sau 1975 đều biết về câu chuyện Lê Văn Tám, một thiếu niên hơn 10 tuổi, bán đậu phộng rang vì lòng yêu nước căm thù giặc Pháp đã tẩm xăng vào người làm “ngọn đuốc sống” đốt kho đạn giặc tại Thị Nghè thành phố Sài Gòn vào ngày 1 Tháng Giêng, năm 1946.”

Câu chuyện về người thiếu niên dũng cảm này đã đưa vào sách giáo khoa dành cho lớp 4 hoặc lớp 5. Nó được truyền tụng tới mức rất nhiều tỉnh và thành phố của Việt Nam lấy tên Lê Văn Tám đặt cho các trường học, tượng đài, công viên, đường phố. Tại các trường học, tên Lê Văn Tám cũng được đặt cho các chi đội, liên đội thuộc tổ chức “Ðội Thiếu Niên Tiền Phong.”

Những giải thích về lý do vì sao lại có nhân vật “anh hùng Lê Văn Tám” của Giáo Sư Phan Huy Lê trên tạp chí Xưa và Nay không khác lắm với lời giải thích của ông với báo Người Việt cách đây hơn 4 năm.

Giáo Sư Phan Huy Lê kể lại câu chuyện ông có dịp làm việc với Giáo Sư Sử Học Trần Huy Liệu vào những năm 1960, lúc ấy ông Trần Huy Liệu là phó chủ nhiệm Ủy Ban Khoa Học Xã Hội, kiêm viện trưởng Viện Sử Học. Ông Trần Huy Liệu mất năm 1969.

Giáo Sư Phan Huy Lê tóm lược một cách đầy đủ lời kể và lời dặn của Giáo Sư Trần Huy Liệu, như sau: “Nhân vụ kho xăng của địch ở Thị Nghè bị đốt cháy vào khoảng Tháng Mười, 1945 và được loan tin rộng rãi trên báo chí trong nước và đài phát thanh của Pháp, đài BBC của Anh; nhưng không biết ai là người tổ chức và trực tiếp đốt kho xăng nên tôi (GS Trần Huy Liệu) đã “dựng” lên câu chuyện thiếu niên Lê Văn Tám tẩm xăng vào người rồi xông vào đốt kho xăng địch cách đấy mấy chục mét.”

“GS Trần Huy Liệu còn cho biết là sau khi ta phát tin này thì đài BBC đưa tin ngay, và hôm sau bình luận: Một cậu bé tẩm xăng vào người rồi tự đốt cháy thì sẽ gục ngay tại chỗ, hay nhiều lắm là chỉ lảo đảo được mấy bước, không thể chạy được mấy chục mét đến kho xăng. GS đã tự trách là vì thiếu cân nhắc về khoa học nên có chỗ chưa hợp lý. Ðây là ý kiến của GS Trần Huy Liệu mà sau này tôi có trao đổi với vài bác sĩ để xác nhận thêm.”

Giáo Sư Phan Huy Lê nhấn mạnh là “GS Trần Huy Liệu không hề “hư cấu” sự kiện kho xăng địch ở Thị Nghè bị đốt cháy mà trên cơ sở sự kiện có thật đó, chỉ “dựng lên”, theo cách nói của GS, chuyện thiếu niên Lê Văn Tám tẩm xăng đốt cháy kho xăng địch.”

Theo lời Giáo Sư Lê thì, “Giáo Sư Trần Huy Liệu giải thích là thời Nam Bộ kháng chiến, có bao nhiêu tấm gương hy sinh vì tổ quốc, nhưng “dựng” chuyện thiếu niên Lê Văn Tám là nghĩ đến biểu tượng cậu bé anh hùng làng Gióng (Phù Ðổng Thiên Vương), còn việc đặt tên Lê Văn Tám là vì họ Lê Văn rất phổ biến ở nước ta và Tám là nghĩ đến Cách Mạng Tháng Tám. Lúc bấy giờ, GS Trần Huy Liệu đang giữ chức bộ trưởng Bộ Thông Tin Tuyên Truyền trong chính phủ lâm thời, nên GS nói rõ là muốn tạo dựng nên một biểu tượng anh hùng để tuyên truyền, cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân dân ta.”

Giáo Sư Phan Huy Lê cũng nói lại điều căn dặn của Giáo Sư Trần Huy Liệu là: “Sau này khi đất nước yên ổn, các anh là nhà sử học, nên nói lại giùm tôi, lỡ khi đó tôi không còn nữa.”

“Trong câu chuyện, GS còn tiên lượng là biết đâu sau này có người đi tìm tung tích nhân vật Lê Văn Tám hay có người lại tự nhận là hậu duệ của gia đình, họ hàng người anh hùng. Ðây chính là điều lắng đọng sâu nhất trong tâm trí mà tôi coi là trách nhiệm đối với GS Trần Huy Liệu đã quá cố và đối với lịch sử.” Giáo Sư Phan Huy Lê viết.

Giáo Sư Lê khẳng định: “Tôi kể lại câu chuyện này một cách trung thực với tất cả trách nhiệm và danh dự của một công dân, một nhà sử học.”

Ðiều này trùng hợp với lời khẳng định của ông trên báo Người Việt 4 năm về trước, rằng: “Là những nhà sử học, chúng tôi phải giữ một thái độ trung thực và phải tiếp cận với sự việc càng rõ ràng càng tốt và vì thế tôi đã công bố ‘lời nhắn nhủ’ của anh Trần Huy Liệu.”

Hồi năm 2005, trong cuộc họp với hãng phim truyền hình Việt Nam (thuộc đài truyền hình VN) Giáo Sư Phan Huy Lê, từng nói về chi tiết phi lý về “Lê Văn Tám” rằng: “Cậu bé Lê Văn Tám sau khi tẩm xăng vào người và tự châm lửa đốt, vẫn còn khả năng chạy từ ngoài vào kho xăng với quãng đường 50 mét. Tôi đã hỏi một số bác sĩ, và họ cho rằng với sức nóng của lửa xăng, một em bé không thể chạy xa như vậy”.

Tuy nhiên, không phải không có ý kiến phản bác lại những gì Giáo Sư Phan Huy Lê công bố.

Sau bài trên báo Người Việt (Tháng Ba, năm 2005), thì ba năm sau, tờ Sài Gòn Giải Phóng số ra ngày Thứ năm, 16 Tháng Mười, 2008, có bài viết tựa đề “Về cây đuốc sống Lê Văn Tám” của ông Trần Trọng Tân, nguyên là trưởng ban Tư Tưởng Văn Hóa Thành Ủy, thành phố Sài Gòn. Trong bài này, ông Trần Trọng Tân nói rằng: “Có người đã gửi cho tôi một tài liệu được lấy trên mạng thông tin điện tử, trong đó Giáo Sư Phan Huy Lê đã tiết lộ: ‘Nhân vật lịch sử anh hùng Lê Văn Tám hoàn toàn không có thật’.”

Sau khi dẫn ra nhiều tư liệu, ông Trần Trọng Tân khẳng định rằng “Cây đuốc sống Lê Văn Tám” là có thực.

Ông Tân viết: “Ðánh kho đạn Thị Nghè có 2 lần vào ngày 17 Tháng Mười. 1945 và ngày 8 Tháng Tư, 1946; trận ngày 17 Tháng Mười, 1945 với “Cây đuốc sống Lê Văn Tám” là có thực; Lê Văn Tám đã đốt kho đạn, không phải kho xăng; Lê Văn Tám không phải “tự tẩm xăng vào người và chạy vào đốt kho xăng” mà “đã lừa bọn lính gác, lọt vào ẩn nấp bên trong với chai xăng và bao diêm chờ lúc sơ hở, em tưới xăng vào khu vực chứa đạn và châm lửa. Lê Văn Tám bị dính xăng bắt lửa thành ‘cây đuốc sống’; người tổ chức, bày kế hoạch cho Lê Văn Tám làm là anh Lê Văn Châu, đã hy sinh trong trận đánh giặc Pháp ở Ngã ba Cây Thị năm 1946.”

Tuy vậy, ý kiến của ông Trần Trọng Tân không được dư luận đồng tình, bởi ông không phải là một nhà sử học chuyên nghiệp. (K.N)
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Sự Thật Phơi Bày

Post by uncle_vinh »

Đại lễ dâng Ải Nam Quan cho Trung Cộng ngày 23.02.2009

Đại lễ dâng đất tổ tiên của người Việt Nam cho Trung cộng đã được Việt cộng
thực hiện trong niềm hân hoan vào ngày 23 tháng 02 năm 2009 vừa qua.
Đại lễ diễn ra ngay tại Ải Nam Quan, ngay tại cột mốc ô nhục Km0!
Hồn Phi Khanh dìu theo Nguyễn Trãi đi ngược hàng trăm thước để đến xem bọn cộng sản buôn dân bán đất bỉ ổi đến mức độ nào. Ôi bi thương! Tội này đáng cho tru di tam tộc! Đời đời nguyền rủa! Dân Việt Nam hèn hạ khiếp nhược ngoại bang như thế sao!( phai doi lai la bon cam quyen chu khong phai dan Vn)
Đất tổ tiên đã thấm máu hồng mà nay lại tươi cười dâng cho Tàu cộng...

Hãy xem và đừng quên những khuôn mặt bán nước cầu vinh hèn hạ!

Toàn cảnh Đại lễ tại Ải Nam Quan do Trung Cộng thiết kế từ nhiều tháng trước

Tam hình này da duoc thu nho lai de vua voi kich thuoc trong Dien Dan. Bam vào day de xem hình lon hon. Kich thuoc nguyen thuy la 973x678 và nang 335KB.
Image

Hai bên chính phủ cộng sản-cộng nô đi qua dàn chào
Image

Ngay tại Km0 địa hình lại thêm một lần biến đổi.2 ten ban nuoc Triet va Manh
Image

Có thanh la, phèn trống cho đại lễ thêm phần long trọng. Từ thưở Hùng Vương, Lê Lai-Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ, Gia Long...Bảo Đại đến thằng cu tí ra đời vào ngày 30-04-1975 có mơ cũng chưa bao giờ thấy những cảnh hãi hùng này!
Image

Km0 ô nhục mang tiếng quá nhiều rồi. Nay đàn anh Trung Cộng tặng cho cộng nô Việt Nam cái cột mốc đánh số 1116. Xóa hết dấu tích!
Image

Chụp hình lưu niệm dành cho lịch sử. Con dân nước Việt đừng hòng bén mảng đến chân cửa Ải Nam Quan nữa nhé!
Image

Hoạt động kỷ niệm 30 năm Chiến tranh biên giới Trung-Việt ngay tại các cửa khẩu. (Ảnh chụp tại Thác Bản Giốc-Đức Thiên)
Image

Người Việt Nam trong nước có hay biết gì không???

Phi Khanh, Nguyễn Trãi lại thêm một lần rơi lệ.
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Sự Thật Phơi Bày

Post by uncle_vinh »

Đi Mỹ Về, Tướng Vc “nổ” Sảng Vụ Ngăn Dự Luật Nhân Quyền

Việt Báo Thứ Hai, 12/21/2009, 12:00:00 AM

Hoa Thịnh Đốn (Việt Báo)- Như báo chí đã loan tin vào ngày 15-12-09, bộ trưởng quốc phòng Cộng sản Việt Nam là đại tướng Phùng Quang Thanh đã đến thủ đô Hoa Thịnh Đốn để họp với bộ trưởng quốc phòng Robert Gates và sau đó gặp hai thượng nghị sĩ John McCain và thượng nghị sĩ Jim Webb (James H. Webb).

Thông Tấn Xã Việt Nam đã có bài phỏng vấn tướng Phùng Quang Thanh và được nhiều trang mạng phổ biến trong nước cùng quốc tế như BBC. Trong phần trả lời, viên chức cao cấp Cộng sản này đã tuyên bố rằng: “Trong cuộc gặp với các thượng nghị sĩ James H.Webb và John McCain, tôi đã đề nghị với họ trên cương vị và khả năng của mình, ngăn không đưa dự luật nhân quyền cho Việt Nam ra Thượng Viện, họ đã đồng tình không để việc đó xảy ra.”

Thế nhưng theo bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi, Phó Tổng Thư Ký Đảng Dân Chủ Việt Nam đặc trách văn phòng hải ngoại, đã liên lạc với văn phòng của thượng nghị sĩ Jim Webb và được họ xác nhận là vấn đề nhân quyền Việt Nam không có đặt ra trong cuộc gặp gỡ giữa Jim Webb và Phùng Quang Thanh ngày 15-12-09, và do đó không hề có chuyện Jim Webb đồng tình ngăn không đưa dự luật nhân quyền cho Việt Nam ra Thượng Viện như lời kể của viên chức Cộng Sản này.

Được biết thượng nghị sĩ Jim Webb đã tiếp bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi tại văn phòng vào ngày 16-9-09, và trong dịp này vị dân cử đặc trách Tiểu ban Đông Á Thái Bình Dương của Ủy ban Đối ngoại Thượng Viện Hoa Kỳ, từng làm Bộ trưởng Hải quân, đã khẳng định sự ủng hộ của ông đối với sự đấu tranh nhân quyền của cộng đồng người Việt hải ngoại.

Dự luật nhân quyền cho Việt Nam đã từng được thông qua tại Hạ Viện mấy lần nhưng khi đưa lên Thượng Viện thì bị ngăn trở bởi một vài thượng nghị sĩ. Chưa biết là năm tới 2010, dự luật nhân quyền này có còn bị ngăn trở nữa hay không.
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Sự Thật Phơi Bày

Post by uncle_vinh »

Ném đá nhưng không giấu được tay

Trân Văn, phóng viên RFA
2010-01-01

Qua loạt bài “Bịt miệng trên không gian ảo”, chúng tôi đã tường trình về sự kiện tin tặc liên tục tấn công một số website Việt ngữ trên Internet.

Image
Photo: RFA
“Hãy lên tiếng vì tự do internet ở Việt Nam”

Chưa ngừng ở đó, mới đây, tin tặc tiếp tục mạo danh, ngụy tạo thông tin nhằm bôi nhọ, ly gián những người sáng lập trang web Bauxite Việt Nam.
Điểm đáng chú ý nhất là những thủ đoạn ấy không qua mắt được cộng đồng mạng, chính các blogger đã vạch trần thủ đoạn mà họ gọi là “bỉ ổi”, “đê tiện” đó.

Sau bịt miệng là mạo danh

Trong vài tuần qua, tin tặc liên tục tấn công một số trang web vốn thu hút rất đông người Việt ở trong và ngoài nước cùng truy cập như: Bauxite Việt Nam, Talawas, Đối Thoại...

Dù có những khác biệt về mục tiêu (chẳng hạn, trong khi Đối Thoại cổ súy việc thay đổi thể chế chính trị, Talawas chủ trương hỗ trợ xây dựng “công luận độc lập” thì Bauxite Việt Nam khẳng định ý hướng phi chính trị, chỉ “nói thẳng, nói thật”...), song cả ba website đều có một điểm chung là đã xuất hiện và tồn tại như các kênh thông tin không phụ thuộc vào chính quyền Việt Nam và chính quyền Việt Nam không thể chi phối nội dung của các kênh thông tin này.

Giống như nhiều đợt tấn công nhắm vào một số website Việt ngữ đã từng xảy ra trong quá khứ, đợt tấn công nhắm vào Bauxite Việt Nam, Talawas, Đối Thoại... cũng nhằm vô hiệu hoá hoạt động, xoá dữ liệu của website. Điều đó tạo cho nhiều người cảm giác, hình như đang có một cuộc đối đầu để giành và giữ quyền tự do ngôn luận trên Internet.

Đến nay, tuy những người điều hành Bauxite Việt Nam, Talawas, Đối Thoại... cố giành lại quyền quản trị, song ba trang web vừa kể vẫn đang bị tin tặc khống chế.

Mới đây lại có thêm một vài diễn biến cho thấy, sau khi vô hiệu hoá ba kênh thông tin đã kể, tin tặc đang khai thác các thông tin mà họ trộm cắp được để bôi nhọ, ly gián những người sáng lập, điều hành các website. Rõ nhất là đối với Bauxite Việt Nam.

Nhiều blogger đang là chủ những blog có đông bạn bè, độc giả, cùng tiết lộ rằng, trong ngày 27 tháng 12, họ đã nhận được một email đính kèm hai tập tin. Tập tin thứ nhất có hai lá thư của nhà giáo Phạm Toàn – một trong ba người sáng lập trang web Bauxite Việt Nam – xin rút tên khỏi nhóm điều hành Bauxite Việt Nam, bởi: không đủ sức khoẻ, nhiều việc và đặc biệt là – xin dẫn nguyên văn: “Tôi giống ông Pavlov, chỉ làm việc được với chó không làm việc được với người!” Tập tin thứ hai, tập hợp một số thư điện tử trao đổi công việc giữa Giáo sư Nguyễn Huệ Chi với cộng tác viên. Những email này tạo nơi người đọc cảm giác, Giáo sư Nguyễn Huệ Chi là một “người hai mặt”.

Tuy trang web Bauxite Việt Nam đang thu hút sự chú ý cao độ của công chúng, song điểm đáng chú ý hơn cả là dù email đính kèm hai tập tin, tiết lộ một vài bí mật về những người sáng lập, điều hành trang web Bauxite Việt Nam được phát tán rộng rãi nhưng không có blogger nào công bố các thông tin đó.

Một vài blogger cho biết, sau khi xem qua hai tập tin đính kèm, họ đã vứt email có nội dung như đã kể vào thùng rác. Một vài blogger khác thì tìm cách liên lạc trực tiếp với những người sáng lập trang web Bauxite Việt Nam để xác định thực hư. Trong số này có blogger Nguyễn Quang Lập – một nhà văn, đồng thời là chủ nhân blog mang tên “Quê choa”.

Blogger Nguyễn Quang Lập kể trên blog của ông, sau khi đọc email, ông đã gọi điện thoại cho Giáo sư Nguyễn Huệ Chi. Giáo sư Nguyễn Huệ Chi tỏ ra rất ngạc nhiên và bảo rằng, trừ chuyện nhà giáo Phạm Toàn xin rút tên khỏi nhóm quản trị Bauxite Việt Nam vì sức khoẻ kém do mới mổ tim hồi năm ngoái và vì nhà giáo Phạm Toàn còn nhiều việc riêng phải làm, những email khác đều là bịa đặt. Blogger Nguyễn Quang Lập nhấn mạnh: “Nguyễn Huệ Chi còn nói thêm, anh tin anh Phạm Toàn không bao giờ có những lời lẽ như thế đối với anh cũng như nhóm biên tập.”

Blogger Nguyễn Quang Lập cho biết ông cũng đã gặp nhà giáo Phạm Toàn trong một đám cưới diễn ra ngay sau đó. Ông kể: “Nghe chuyện hai email, nhà văn Phạm Toàn hết sức sửng sốt, anh bỏ cả đám cưới chạy về nhà ngay. Một giờ sau anh gọi điện cho tôi nhiều lần, nói bọn chúng đã giả mạo email của anh, chỉ đổi chữ “i” thành chữ “j” trên địa chỉ email. Đến 22h30, tôi nhận đựơc thư của Phạm Toàn nhờ công bố cho mọi người.”

Chưa thấy tay nhưng biết ai ném?

Thư nhà giáo Phạm Toàn gửi bạn bè trên Internet đã được công bố gần như lập tức, khác hẳn thái độ đối với email đính kèm hai tập tin, cung cấp một số “bí mật” về những người sáng lập, điều hành trang web Bauxite Việt Nam mà ai đó đã chuyển tận tay nhiều blogger hoặc người điều hành các website có đông người truy cập.

Trong thư, nhà giáo Phạm Toàn viết: Trang mạng Bauxite Việt Nam hiện đang bị bọn lưu manh tin học phá hoại bằng hai hình thức: Hình thức thứ nhất là dùng kỹ thuật để đánh sập trang thông tin dân sự này và hình thức thứ hai là mạo danh một người của trang này (cụ thể là mạo danh ông Phạm Toàn) để chia rẽ nội bộ (cụ thể là viết bài ký tên Phạm Toàn có nội dung bịa đặt, nói xấu, bôi nhọ giáo sư Nguyễn Huệ Chi).

Về vụ việc này, tôi Phạm Toàn, xin trân trọng kính báo cùng bạn đọc trong và ngoài nước như sau: Bài viết “Nguyễn Huệ Chi – con người hai mặt” ký tên Phạm Toàn và một số tư liệu đính kèm được gửi tới mọi người là hoàn toàn giả mạo. Cách thức kẻ xấu tạo địa chỉ điện tử viết sai một chữ i thành chữ j là một âm mưu vô cùng nham hiểm: Những thư từ của bạn đọc gửi cho ông Phạm Toàn để hỏi thực hư hoặc để phản đối đã không tới được người nhận, dẫn đến những giận dữ và hiểu lầm chết người…

Ông cảnh báo: Tài liệu giả mạo cho thấy kẻ xấu đã chiếm dụng một số thư từ trao đổi nội bộ và cắt xén để tạo ra tác dụng xấu, có khả năng tạo ra những hệ quả khó lường. Trang mạng dân sự Bauxite Việt Nam ra đời từ giữa tháng 4 năm 2009 nhưng được rất đông đảo bạn đọc quan tâm. Những kẻ nào thấy sợ hãi trước ảnh hưởng của trang mạng phải tìm mọi cách để triệt phá nó, đó là lẽ thường tình...

Chúng tôi đã gọi điện thoại để đề nghị nhà giáo Phạm Toàn, cho thính giả Đài Á Châu Tự Do nghe thêm ý kiến của ông:

Nhà văn Phạm Toàn: Tôi xin lỗi, hiện nay tôi rất mệt mỏi...

Trân Văn: Dạ

Nhà văn Phạm Toàn: Tôi là người hoà bình, không chịu được căng thẳng... (ho)

Trân Văn: Dạ

Nhà văn Phạm Toàn: Anh cho phép tôi khất... được không...?

Trân Văn: Dạ

Nhà văn Phạm Toàn: Có phiền anh không?...

Trân Văn: Dạ không...

Nhà văn Phạm Toàn: Anh thông cảm nhá...

Việc mạo danh một nhà giáo 78 tuổi, trộm cắp thông tin, ngụy tạo thư tín, vừa nhằm bôi nhọ thân hữu của ông, vừa ly gián ông với họ, kéo ông vào một vụ thị phi đã gây sự phẫn nộ trong cộng đồng mạng. Nhiều blogger khẳng định, không cần nói ra thì ai cũng biết đó là ai! Có blogger gọi đây là “sự bỉ ổi có phương pháp”, có blogger gọi đây là “sự đê tiện ở mức thấp nhất”.
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Sự Thật Phơi Bày

Post by uncle_vinh »

TÔI THẤY và NGHE ĐƯƠC GÌ Ở SÀI GÒN và MIỀN NAM V.N

Lời người viết: Đây không phải là một phóng sự hay một bài nghiên cứu xã hội với những phương pháp khoa học của nó - mà chỉ là những điều vụn vặt mắt thấy tận nơi , tai nghe tận chỗ - ghi lại môt cách trung thực ..

Tôi thấy BỘ MẶT SÀI GÒN ĐỔI MỚI với:

Những khách sạn 5 sao , 4 sao lộng lẫy . Đổi mới với những nhà hàng '' vĩ đại '' trên các tuyến đường du lịch.
Với những trung tâm ''thư giản'' sang trọng, quý phái cở câu lạc bộ Lan Anh ..
Với những vũ trường cực kỳ tráng lệ như vũ trường New Century Hànội .
Với những trường Trung học tư thục mang tên Mỷ, giáo sư Mỷ, chương trình học của Mỷ, giảng dạy bằng tiếng Mỳ- học sinh phải trả học phí bằng tiền Mỷ - 600US$ đến 1000US$ /tháng (giai cấp nào đủ sức trả học phí nầy cho con?)

Tôi cũng hiểu rằng các nơi nầy là nơi ăn chơi của vương tôn công tử ''đỏ'', các nhà giàu mới - thân nhân các quyền lực đỏ đứng đàng sau , các quan chức đỏ đô la đầy túi . Họ đến đây để ''thư giản'', uống rượu , đánh bạc ,cá độ và tìm gái . Uống chơi vài chai rượu ngoại VSOP , XO là chuyện thường. Mỗi đêm có thể tiêu hàng ngàn đô la Mỷ cũng không phải là điều lạ.
Trong khi lương tháng của một thầy giáo Trung học trường công không đủ để trả một chai rượu XỌ Vụ MPỤ18 cá độ hàng triệu US $ đã bị phanh phui..là một thí dụ cụ thể . Vũ trường New Century bị Công an đến giải tán vì các công tử và tiểu thư con các quan chức lớn nhảy đã rồi...'' lắc'' suốt đêm.
Vài hôm sau - đâu cũng vào đó

Tôi cũng thấy Sàigòn- người, xe và phố xá dầy đặc, nghẹt thở - vài tòa cao ốc mọc lên vô trật tự - ở xa xa,có cái trông giống như chiếc hộp quẹt .. nhà cửa mặt tiền hầu hết đều lên lầu nhiều tầng. Kiến trúc hiện đại .Vật liệu nhập cảng đắc tiền . Nhà trong hẻm - phần lớn cũng lên nhiều tầng cao nghệu. Có nhiều khu xây cất bừa bãi, nhô ra thụt vào như những chiếc răng lòi sĩ vô duyên, lấn chiếm ngang ngược đất công hoặc lề đường...

Tôi thấy Sàigòn bị ô nhiểm trầm trọng với hằng triệu tiếng động cơ , ngày đêm đinh tai nhức óc và 3.000.000 chiếc Honda - phun khói mịt mù - chưa kể đến xe hơi. Và hệ thống cống rảnh lạc hậu - mỗi khi trời mưa lớn - nước rút không kịp, ứ đọng tràn ngập nhà cửa . Hệ thống đổ rác còn lạc hậu.. không đáp ứng nổi nhu cầu thải rác của 8.000.000 dân nhun nhúc như kiến..

Sàigòn đầy dẫy những hàng ngoại do công ty ngoại quốc sản xuất tại chỗ ..hàng lậu của Trung quốc tràn vào vô số kể.. Máu kinh tế Việt Nam bị loảng ra. Nhưng chế độ xã nghĩa im thin thít chịu trận, không dám một lời phản kháng. Một chiếc xe Honda nhãn hiệu Trung quốc giá khoản chừng 1000 đô la Mỷ ..chưa kể hàng Trung quốc lậu thuế, rẻ mạt.. Thuốc lá và bia - bia nội, bia ngoại - có đủ .. Nhậu và hút là 2 cái mốt bình dân thời thượng nhứt ở Sàigòn. Đảng viên, cán bộ - giai cấp thống trị - nhậu .. Già nhậu, trẻ nhậu... con nít cũng tập tành nhậu .. Hút thì khỏi nói ..

Giai cấp cán bộ răng đen mã tấu bây giờ là giai cấp nắm thống trị - đã lột xác - không còn quấn thuốc rê, bập bập phà khói mịt mù nữa - mà lúc nào cũng lấp ló một gói 3 con 5 , Craven A, trong túi. Lãnh đạo hút, cán bộ hút, dân chúng hút - thậm chí con nít 9,1 0 tuổi ở đồng quê cũng phì phà điếu thuốc một cách khoái trá.. Các hảng bia và thuốc lá ngoại quốc đã tìm được một thị trường tiêu thụ béo bở. Cán bộ lớn cũng âu phục, cà vạt hẳn hoi, xe hơi bóng loáng.. nhưng bộ răng hô, mái tóc bạc thếch, và nước da mốc mốc .. cũng không dấu được nét thô kệch của một anh nhà quê lên Tỉnh ..

Tôi còn thấy Sàigòn với hiện tượng ''tiếm công vi tư'' lộng hành, ngang ngược của Công an đến độ dân chúng quen thuộc, xem là một chuyện đương nhiên như chuyện hối lộ đã trở thành cái lệ .. bất thành văn trong chế độ xã nghĩa. Chiếm đoạt một nửa công viên, xây nhà gạch dùng làm quán cà phê .. Chưa thỏa mãn - ban đêm còn dọn thêm bàn ghế trên sân cỏ của phần công viên còn lại và thắp đèn màu trên mấy chậu kiểng cho thêm thơ mộng .. Ông chủ bự nầy chắc chắc không phải là dân thường. Ông lớn nầy xem công viên như đất nhà của ông vậy . Ai có dịp đi ngang qua mũi tàu - nơi gặp gở của 2 đường Nguyễn Trải và Lê Lai cũ, ngang hông nhà thờ Huyện Sĩ - thì rõ .

Còn nhiều.. rất nhiều chuyện lộng hành chiếm đất công,l ấn lề đường nhan nhãn ở khắp Saigòn. Chỉ đưa ra vài thí dụ cụ thể : Một công thự tại vườn Tao đàn (có lẽ là nhà cấp cho viên Giám đốc Công viên Tao đàn) - mặt tiền ngó vào trong - mặt hậu nhìn ra phía đường Nguyễn Du (Taberd cũ ) - bèn có màn trổ cửa mặt sau nhà , xây thêm phía sau thành 2 căn phố thương mãi mặt tiền ngó ra đường Nguyễn Du , trị giá mỗi căn, nhiều trăm ngàn mỷ kim - ngon ơ ! Tương tự như vậy - ở góc đường Thành Thái và Cộng Hoà cũ .. trước sân nhà của ông Hiệu Trưởng trường Quốc gia Sư Phạm trước 75 - phố thương mãi, quán xá la liệt chiếm mất mặt tiền.
Ngang ngược và lộng hành nhứt là 2 căn phố thương mãi bên hông trường Trương minh Ký, đường Trần hưng Đạo , chễm chệ xây lên ngay bên góc phải sân trường như thách đố dân chúng ..Còn trên lề đường khá rộng trước câu lạc bộ CSS cũ, bây giờ là câu lạc bộ Lao động - nhiều gian hàng thương mãi bán quần áo ,giày vớ thể thao .. buôn bán ầm ỉ, náo nhiệt suốt ngày.

Công an chiếm đất công, xây nhà tư. Công viên, lề đường trước nhà dân là đất riêng của Công An. Công an sử dụng làm chỗ gửi xe, bịt kín cả lối đi vào nhà .. Không ai dám hó hé. Im lặng là an toàn.Thưa gửi là dại dột. Mà thưa với ai?Tất nhiên là phải thưa với công an. Không lẽ công an xử công an ? Tướng CS Trần Độ phản ảnh còn rõ rệt hơn : ''Xã hội Việt Nam ngày nay là một xã hội vô pháp luật mà phần đầu tiên gây ra là Đảng. Không thể nào chống tham nhũng được vì nếu Đảng chống tham nhũng thì Đảng chống lại Đảng sao? '' ( Nhật ký ''Rồng rắn'' của Trần Độ ) .

Nón cối, nón tai bèo, dép râu, áo chemise xùng xình bỏ ngoài chiếc quần màu xanh của người cán bộ CS ngơ ngác khi mới vào Sàigòn - đã biến mất.. Cũng không còn thấy những chiếc áo dài tha thướt của những cô gái đi dạo phố ngày cuối tuần trên các đại lộ Lê Lợi, Lê thánh Tôn, Tự do những ngày trước 75 nữa. Thay vào đó là một đội ngũ phụ nữ - mũi và miệng bịt kín bằng ''khẩu trang'', găng tay dài đến cùi chỏ, cỡi Honda chạy như bay ... trên đường phố .

Tôi còn thấy những người nghèo khổ chở trên chiếc xe thồ, những thùng carton và bao túi Ny long, chồng chất lên nhau cao ngất như sắp đổ xuống ...những bà cụ già, những cậu bé tuổi đáng được ngồi ở ghế nhà trường.. những anh phế binh cụt tay, cụt chưn, lê lết trên một miếng ván gổ ....đi bán vé số ( một cách ăn xin trá hình)

Bộ mặt Sàigòn ''đổi mới'' bằng những khách sạn lộng lẫy, những câu lạc bộ thời thượng, những phố xá thương mãi sang trọng, những hiệu kim hoàn lóng lánh kim cương, những nhà hàng ăn vĩ đại , những vũ trường cực kỳ tráng lệ , những biệt thự đồ sộ nguy nga mới xây bằng vật liệu ngoại đắt tiền .. trang trí cây cảnh như một mảng vườn Thượng uyển của vua chúa ngày xưa .. những xe hơi bóng loáng nhởn nhơ trên đường phố - nhiều người chóa mắt .. choáng váng , cho là ''Việt Nam bây giờ tiến bộ quá''. Riêng Phó thường dân tôi tự nghĩ : Như vậy có phải là tiến bộ không ? Sự tiến bộ của một nước
cần phải nhìn về nhiều mặt : Mặt y tế và giáo dục, mặt đời sống vật chất và tinh thần của dân chúng..

Lợi tức đầu người của Việt Nam - theo thống kê của báo The Economist - bằng : 555 US$ năm 2007 ( Hà Nội bốc lên 730 US $ )chỉ hơn Lào và Cambodia chút đỉnh .. So với các nước láng giềng : Thái Lan : 2550 US$ - Phi luật Tân : 1040US$ - Nam Dương : 1160US$ .Tân gia Ba 24840US$ .( The Economist World, năm 2007 - p.158, 176, 238 ) - Việt Nam còn lẹt đẹt đàng sau rất xa . Và trước bộ mặt thay đổi choáng ngợp nầy - nếu đặt câu hỏi : Ai là chủ nhân của những xe hơi, khách sạn- vũ trường, những thương hiệu lớn, những biệt thự lộng lẫy kia ? - thì câu trả lời không sợ sai lầm là của cán bộ đảng viên (tại chức hoặc giải ngủ) hoặc con cháu thân nhân của họ. Và ở thôn quê - giai cấp giàu có bây giờ là ai ? giai cấp địa chủ là ai ? Có phải do của cải của ông cha để lại hay do sự kinh doanh tự do, mua bán làm ăn mà có ? ?

Cho dù núp dưới cái hào quang chiến thắng ''đánh Tây, đuổi Mỷ'' - cho dù che giấu, lấp liếm, giải thích thế nào chăng nữa - thì dân miền Nam ( gồm cả Nam lẫn Bắc theo chế độ Tự Do ) vẫn thấy một sự thật. Sự thật đó là người Bắc XHCN tràn ngập, chiếm hữu toàn bộ phố xá thương mãi trọng yếu của Sàgòn. Làm sao nói khác được khi đi một vòng quanh Sàigòn .. và các khu phố sầm uất nhứt .. vào những hiệu buôn lớn để mua hàng hay hỏi han chuyện trò thì thấy toàn là người Bắc Cộng sản - từ cô bán hàng đến bà chủ ngồi phía trong - cũng toàn là người của xã hội chủ nghĩa miền Bắc. Các tiệm buôn lớn trước 75- như các tiệm vàng Nguyễn thế Tài, Nguyễn thế Năng, Pharmacie Trang Hai, tiệm Émile Bodin của bầu Yên, nhà hàng Bồng Lai, Thanh Thế, Nguyễn văn Đắc, Phạm thị Trước ... hiện nay, một số đã đổi bảng hiệu hoặc xây cât lại ..nhưng đều do người miền Bắc XHCN làm chủ.

Các cơ sở khác như nhà hàng ăn lớn, tiệm phở, công ty thương nghiệp, dịch vụ lớn, những tiệm buôn bán dồ nhập cảng v.v.. cũng đều do người Bắc XHCN chiếm giữ .. Tuy không có con số thống kê chính xác nhưng tự mình đi đếm hàng trăm tiệm buôn sang trọng quanh các khu phố lớn ở Sàigòn.. thì khám phá ra được chủ nhân là người Bắc XHCN . (Tất nhiên là vợ con,thân nhân cán bộ lớn ) .Những gái Bắc XHCN bán hàng là con cháu của chủ nhân người Bắc CS (do các cô tự nói ra ) . Các cô chiêu đãi viên trên phi cơ VNHK đều là người Bắc thân nhân hay con cháu cán bộ - dĩ nhiên - vẻ mặt lạnh lùng, hách dịch với người Việt Nam và khúm núm lịch sự với khách ngoại quốc..Cán bộ, công nhân viên trọng yếu - cũng đều là người Bắc - trừ một số cán bộ gốc miền Nam tập kết - theo đoàn quân viễn chinh vào đánh chiếm miền Nam - thì cũng kể họ là người XHCN miền Bắc ..

Hệ thống quyền lực từ trên đến dưới - từ Trung ương đến địa phương - từ Tỉnh thành đến quận lỵ, thị trấn, làng xả gần - đều do đảng viên người miền Bắc XHCN - nắm giữ. Những công Ty dịch vụ có tầm cở, những công Ty thương mãi sản xuất lớn - điển hình là một công Ty vận tải và du lịch có đến 6000 xe hơi đủ loại.. chủ nhân cũng là người Bắc XHCN. Từ chính trị đến văn hóa , từ giáo dục đến truyền thông, từ nhà cầm quyền cai trị đến chủ nhân cơ sở thương mãi, sản xuất - cũng do người miền Bắc XHCN nắm giữ ..

Đó là sự thật trước mắt ai cũng thấy . Còn những vàng bạc, kim cương, đô la ,tài sản tịch thu, chiếm đoạt được trong các cuộc đánh tư sản, cải tạo công thuơng nghiệp - nhà cửa của tù cãi tạo, của dân bị đuổi đi kinh tế mới, những tấn vàng của VNCH để lại, những luợng vàng thu được từ những người vuợt biên bán chánh thức - tài sản những người thuộc diện tư sản - toàn bộ tài sản nầy từ Saigòn đến các Tỉnh miền Trung, miền Nam - được đem đi đâu ?
- Không ai biết .

Thông thường - những của cãi nầy phải được sung vào công quỷ - để làm việc công ích như các ông cộng sản thường rêu rao bằng những mỹ từ đẹp đẻ.. Thế nhưng - sự thật trước nhứt - là các ông đem chia chác nhau . Chia nhau một cách hợp hiến và hợp pháp theo Luật pháp XHCN ( Đọc Đất đai-Nguồn sống và Hiểm Họa của Tiến sĩ Nguyễn thanh Giang). Ông lớn lấy tài sản lớn .Ông nhỏ - nhà cửa nhỏ . Có ông cán bộ trung cấp chiếm hữu đến 4, 5 căn nhà. Ở không hết ... đem cho công Ty ngoại quốc thuê. Điều phổ biến nhứt là các ông cán bộ nầy - vì lo sợ cái gì đó - bèn đem '' bán non'' những căn nhà đó lấy tiền bỏ túi trước. Một căn nhà của một viên chức tù cãi tạo đã sang tay đến 3 đời chủ. Nhà cửa thuộc diện tù cải tạo là dứt khoát phải tịch thu - không ngoại lệ . Những trường hợp con ruột có hộ khẩu chánh thức còn được phép ở lại - là những biện pháp vá víu. Chủ quyền căn nhà nầy là Nhà nước XHCN ..

Không chỉ có những người thuộc diện cải tạo công thương nghiệp, tù cải tạo, vượt biên mà người dân thường có nhà cửa phố xá ..đều bị '' giải phóng'' ra khỏi nhà bằng nhiều chánh sách : Đuổi đi kinh tế mới, dụ vào hợp tác xả tiểu công nghiệp, mượn nhà làm trụ sở, cho cán bộ vào ở chung (chủ nhà chịu không nổi... phải bỏ đi ), đổi tiền để vô sản hoá người dân, khiến họ bắt buộc phải bán tất cả những gì có thể bán để mua gạo ăn, cuối cùng chịu không nổi, phải bán nhà với giá rẻ bỏ..để vô hẻm ở, ra ngoại ô hoặc về quê ... Cán bộ hoặc thân nhân cán bộ miền Bắc XHCN tràn vào ''mua'' nhà Saigòn với giá gần như cho không...và bây giờ là chủ những căn nhà mặt tiền ở Saigòn .

Mang xe tăng T.54, cà nông Liên xô, AK Trung cộng, đẩy hàng hàng lớp lớp thiếu niên ''xẻ dọc Trường Sơn'' bằng máu , nước mắt và xác chết ... vào xâm chiếm miền Nam. Chiêu bài là ''giải phóng'' nhân dân miền Nam - nhưng sự thật khó chối cãi được - là vào để chiếm đoạt tài sản, đất đai , của cải, đuổi dân Saigòn (gồm cả người Nam lẫn Bắc theo chế độ Tự Do ) ra khỏi Thủ Đô bằng nhiều chánh sách khác nhau - để bây giờ chính các ông đã trở thành những nhà tư bản đỏ triệu phú, tỉ phú đô la, vàng bạc kim cương đầy túi - những ông chủ công Ty có tầm vóc, những địa chủ đầy quyền lực ...
Trương mục ở nước ngoài đầy nhóc đô la. Con cái du học ngoại quốc (Trường hợp con Thủ Tướng CS Nguyễn tấn Dũng đang du học Mỷ là trường hợp điển hình) .. Như vậy hành vi nầy gọi là gì ? Trong những lúc canh tàn rượu tỉnh - một mình đối diện với luơng tâm thuần luơng của mình - các ông tự gọi mình đi .

Đến thời ''mở cửa'' - cơ hội hốt tiền còn nhiều hơn..gấp bội. Tư bản ngoại quốc ồ ạt đầu tư, khai thác dầu khí, thâu đô la Việt kiều về thăm quê hương - đô la khách du lịch ngoại quốc, bán đất cho Công Ty ngoại quốc xây cất cơ xưởng, cấp giấy phép các công Ty ngoại quốc, các dịch vụ đấu thầu xây cất cầu cống, làm đuờng xá, xây cất đại công tác. Những món nợ kếch xù từ Ngân hàng thế giới, từ quỷ tiền tệ quốc tế - những món nợ trả đến mấy đời con cháu cũng chưa dứt .. Những đại công tác nầy mặc sức mà ăn.. no bóc ké..
Nhiều công trình vừa xây cất xong ...đã muốn sụp xuống vì nạn ăn bớt vật liệu. Một thí dụ diển hình : Một bệnh viện gần chợ ''cua'' Long Hồ - quê hương của Phạm Hùng - nước vôi còn chưa ráo .. đã muốn sụp . Hiện đóng cửa không sử dụng được.

Hiện tượng người Bắc XHCN khống chế toàn bộ, làm chủ nhân ông mọi lãnh vực , chiếm hữu nhà cửa, phố xá thương mãi ở những khu thương mãi quan trọng nhứt - là một sự thật không thể chối bỏ. Cán bộ lớn đã trở thành những nhà tài phiệt đầy quyền lực - những ông chủ lớn giàu có nhứt lịch sử . Trong khi dân chúng miền quê - nhứt là miền Nam - ngày càng nghèo khổ, thất nghiệp kinh niên .. Khoản cách giàu nghèo càng lớn - đời sống cán bộ và dân chúng càng ngày cách biệt ..Giàu thì giàu quá sức. Nghèo thì nghèo cùng cực ..

Nhà văn - bác sĩ Hoàng Chính - gọi thời kỳ sau 75 là thời ''Bắc thuộc'' :

- ''Năm Bắc thuộc thứ 2 : Lưu vong tại quê nhà trong cái đói lạnh ..
- Năm Bắc thuộc thứ 6 : Cầu cho em nhỏ 10 tuổi đầu đủ cơm ăn giữa bầy thú hát điên cuồng chuyện thù oán.
- Năm Bắc thuộc thứ 12 : Trong ngục thất quê hương ấy, có những bộ xương thôi tập khóc cười ..'' Miền Bắc XHCN đem quân xâm chiếm miền Nam để khống chế nơi đó bằng sự đô hộ hà khắc và tinh vi.

BÔ MẶT THÔN QUÊ MIỀN NAM

Có nhìn tận mắt, nghe tận nơi , mới hình dung được khuôn mặt miền Nam sau 32 năm dưới chế độ cọng sản . Để được trung thực - người viết ghi những điều thấy và nghe - không bình luận - tại những nơi đã đi qua .

Thôn quê miền Nam - những làng xóm gần tỉnh lỵ quận lỵ đã có điện . Những làng xã xa xôi hẻo lánh vẫn còn sống trong sự tăm tối . Đường sá có tu sửa phần nào ..Đường mòn đi sâu vào thôn xóm được lót bằng những tấm dalle lớn ( đường xóm Cái nứa,Cái chuối xã Long Mỷ VL), xe Honda và xe đạp chạy qua được.

''Cầu tre lắt lẻo'', cầu khỉ được thay thế bằng cầu ván, cầu đúc (vật liệu nhẹ ) . Cầu tiêu công cộng trên sông các chợ quận (Cái bè, Cái răng ) nay không còn thấy nữa . Nhà cửa dọc theo bờ sông Cần Thơ - chen vào những nhà gạch ngói, nhà tôn - còn nhiều nhà lá nghèo nàn. Tương tự như vậy - dọc theo bờ sông Long hồ - một số nhà gạch nhỏ mới cất ..xen kẻ những mái lá bạc màu . Vùng Trà ốp, Trà cú (Vĩnh Bình) , chợ Thầy Phó (Vĩnh Long ) nhiều nhà gạch mới xây nhưng vẫn không thiếu nhà lá, nhà tôn.

Đường mòn chạy sâu vào thôn xóm vẫn còn đường đất lầy lội vào mùa mưa nước nổi.. Hai bên đường xe chạy từ Mỷ Tho, Cao Lãnh, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá ,Cần Thơ .. Nhìn chung - có một sự thay đổi rõ rệt . Nhà cửa, hàng quán dầy đặc , động cơ ồn ào, người ta chen chúc .. Cảm giác chung là ngột ngạt, khó thở . Những vườn cây xanh um bên đường đã biến mất .. hoặc thụt sâu vào trong , không còn thấy nữa. Không còn vẻ đẹp thiên nhiên ngày nào của vườn xoài cát sai oằn, mát mắt vùng Cái Bè, An Hữu ,vườn mận Hồng Đào chạy dài hàng mấy cây số ở Trung Lương ...

Dưới sông - từ kinh Vỉnh Tế chảy dài ra sông Tiền Giang - hai bên bờ toàn là nhà sàn, phía sau chống đở sơ sài bằng những trụ cây tràm. Mỗi nhà hoặc 2, 3 nhà đều có cầu tiêu tiểu bắc phía sau. Tắm rửa giặt giũ, múc nước lên uống, phóng uế - cũng cùng trên một dòng sông. Không có gì thay đổi. Làng Chàm còn gọi là chà Châu Giang cũng còn đó. Cũng nghèo như trước. Những chiếc ghe vừa dùng làm nhà ở, vừa là hồ nuôi cá .. Basa, cá điêu hồng v.v.. ở dọc bờ sông khá dài ..Dường như ngành nầy hoạt động khá mạnh . Dọc trên những nhánh phụ lưu của 2 con sông Tìền và sông Hậu - người ta không còn thấy bóng dáng của những cô gái thướt tha trong chiếc áo bà ba và chiếc quần lãnh Mỷ A , chèo ghe tam bản , bơi xuồng như thời trước 75 nữa .. Hỏi một ông già tên Ph. tại Cái Răng,được trả lời : '' Đi lấy Đại Hàn, Đài Loan hết rồi ông ơi !''

Tôi hỏi thêm : '' Các cô gái có nghe nhiều người bị gạt bán vào ổ mãi dâm, nhiều cô gái bị chồng bắt làm lao động khổ sai, bị ngược đãi, đánh đập .. các cô gái nầy không sợ sao ông ? - '' Biết hết - mấy cổ biết hết, báo Tuổi trẻ đăng hàng ngày. Nhưng cũng có những cô có chồng Đại Hàn, cho tiền cha mẹ xây nhà gạch .. Cô khác thấy vậy ham . Phần nghèo , phần không có việc làm kinh niên. Họ liều đó ông. Biết đâu gặp may.'' Câu chuyện gái Việt lấy chồng Đại Hàn, Đài Loan hiện không ai là không biết .

Tờ Tuổi trẻ - số ra ngày mùng 1 Tết năm Đinh Hợi - trong bài : '' Nỗi đau từ những con số''- có nói đến số phận của 65000 phụ nữ đang làm vợ những ông chồng Đài Loan già, tàn tật đui mù, làm vợ tập thể cho cả gia đình cha lẫn con. Cũng do tờ báo nầy : ''Tại một tổ chức kết hôn lậu, hàng chục cô gái đang ''bày hàng'' để 2 ông Hàn quốc tuyển chọn làm vợ và 118 cô gái khác đang nằm, ngồi, lố nhố chờ đến luợt mình ''

Và cũng do tờ Tuổi Trẻ số phát hành ngày 25-04-2007,viết : ''Hơn 60 cô gái ,tuổi từ 18 đến 20 từ miền Tây Nam bộ lên Saigòn để dự tuyển .Các chàng rể Hàn Quốc được quyền soi xem kỷ, chú ý đến cả từng vết thẹo trên thân thể cô gái. Dich vụ môi giới hôn nhân lậu có chiều hướng gia tăng. Chỉ trong vòng nửa tháng mà Công An đã phát hiện 3 vụ môi giới hôn nhân trái phép ở quận 6, 10 và Tân Bình với gần 400 lượt cô gái hiện diện . Thậm chí - những cô gái được xe ôm chở tới địa điểm dồn dập gây náo loạn cả xóm''.

Người viết có lần lang thang trên đường Nguyễn tri Phương tìm quán ăn cơm trưa, có chứng kiến tại chỗ : Từng cặp trai gái lố nhố xếp hàng đôi trước cửa một trường học, để lần luợt vào trong. Hỏi một người trung niên lái xe Honda ôm, được anh trả lời : ' '' Đó là những người con gái đi lấy chồng Đài Loan và Đại Hàn. Hàng bên trong là những đang làm thủ tục xuất ngoại theo chồng. Hàng bên ngoài là những người đang vào ký giấy hôn thú sau khi đã qua các cửa ải môi giới và thủ tục tuyển lựa.''. Tôi nhìn kỷ các cô gái nầy tuổi rất trẻ .. khoản chừng 18 đến 20 ..đứng cặp với những anh Tàu già sồn sồn- có một người tàn tật. Không thấy có thanh niên trẻ. Nhìn cách ăn mặc và nghe họ nói chuyện - tôi đoán chừng họ đến từ miền Tây Nam Bộ. Đây là tổ chức môi giới chánh thức có giấy phép hành nghề ..

Song song với tổ chức chánh thức, còn có một tổ chức '' môi giới hôn nhân lậu''- sự thật là một tổ chức buôn người, chuyên đi dụ dỗ trẻ em và gái , nói gạt là đi bán hàng hay đi làm việc tại các cơ xưởng ngoại quốc nhưng là để bán thẳng vào các ổ mãi dâm ở Kampuchia, Thái Lan, Ma cau.. để nơi đây huấn luyện trẻ em làm nô lệ tình dục..các cô gái làm điếm .. hoặc bán cho người Tàu bỏ tiền ra mua nô lệ .. Tất nhiên là phải có sự tiếp tay che chở ăn chia của Công An . Nói là lậu nhưng thật ra là nhan nhãn xảy ra hằng tuần - thậm chí hằng ngày trước mặt dân chúng tại các quận Bình Thạnh, quận 11..Sàigòn.

Cho dù chánh thức hay lậu.. hậu quả cũng gần giống nhau . Chánh thức thì có giấy phép, có công an làm thủ tục, chánh phủ thu tiền lệ phí . Lậu thì lén lút với sự che chở của Công An . Hậu quả gần giống nhau . Nhiều cô gái về làm vợ mấy tên Đài Loan, Đại Hàn bị ngược đãi, đánh đập tàn nhẫn - ban ngày làm nô dịch.. ban đêm phục vụ tình dục.. rồi bán vào động mãi dâm lấy tiền gở vốn lại ..( Trại cứu giúp nạn nhân của cha Hùng ở Đài Bắc là một bằng chứng) Còn lậu thì .. bán thẳng vào ổ điếm. Biết bao nhiêu thảm cảnh .. biết bao nhiêu bi kịch thương tâm làm rúng động lương tâm nhân loại

.Cựu Quốc Trưởng Sihanouk không giấu được nỗi xót xa trước thảm cảnh người phụ nữ Miên làm vợ mấy thằng Tàu ...lên tiếng kêu gọi họ trở về nước. Không thấy Việt Nam nói nửa lời !

Những cô gái nầy có biết những thảm kịch đau thương, những sự hành hạ, ngược đãi, đánh đập.. nầy khi lấy chồng Đài Loan, Đại Hàn không ? Có bị cưỡng bức, bị dụ dỗ hay tự nguyện ? Cha mẹ có đồng ý hay cản trở ? Nguyên nhân nào đã thúc đẩy họ dấn thân vào con đường hiểm nguy, tương lai mù mịt..?
Trừ những trường hợp bị dụ dỗ qua đường dây buôn người - những người con gái này thật sự là họ TỰ NGUYỆN . Họ còn phải vay tiền mua sắm, ăn diện, hối lộ để đuợc giới thiệu. Nhưng nguyên nhân nào thúc đẩy họ đi lấy chồng Đài Loan, Đại Hàn ?

Có thể có nhiều nguyên nhân phức tạp . Phó thường dân tôi chỉ đưa ra vài nhận định thiển cận như sau : Quá nhiều chương trình ngăn chống lũ lụt, chương trình công nghiệp hóa, đô thị hoá..vừa bãi, không được nghiên cứu cẩn trọng.. đất đai canh tác bị thu hẹp. Dân số gia tăng..Khối lượng đông đảo người miền Trung, Bắc XHCN tràn vào .. Nông dân miền Nam thiếu đất canh tác.. Các cô gái miền Tây.. quẩn bách vì không có việc làm kinh niên - cuộc sống vô vọng mịt mờ - có nhiều trường hợp bị thúc đẩy vì cha mẹ mắng nhiếc, đay nghiến ..khi so sánh con gái mình với cô con gái làng bên có chồng Đại Hàn mang tiền về xây nhà gạch cho cha mẹ .Và cũng vì hấp thụ một nền giáo dục của chế độ CS (sinh sau 75 ) - những người trẻ tuổi không có ý niệm về luân lý đạo đức cũ .. thang giá trị bị đảo lộn.. nên họ không đặt nặng danh dự, sĩ diện như thời trước.. Do vậy - khi bị dồn vào đường cùng .. họ đành đánh liều nhắm mắt đưa chưn.. Nhưng động lực chánh là nghèo.. ;

NGHÈO.......

Là nguyên nhân chánh đưa đẩy các cô gái miền Tây Nam Bộ đi lấy chồng Đại Hàn và Đài Loan ... để hy vọng thoát khỏi cảnh đời cơ cực , vô vọng không lối thoát.. Thế nhưng tại sao đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) - vựa lúa nuôi sống cả nước - sau 32 năm dưới chế độ CS lại trở nên nghèo như vậy - nghèo hơn cả đồng bằng sông Hồng (ĐBSH ) ? Theo tiêu chuẩn nghèo từng vùng của Tổng cục thống kê Việt Nam - thì tỷ lệ ĐBSCL năm 1998 : ĐBSC : 37% .. ĐBSH : 29% . Năm 2002 : ĐBSCL : 13 % . ĐBSH : 9% . ( Nhà x.b Thống kê - Hànội, trang 13 - LVB trích dẫn ). Dù theo tiêu chuẩn nào : tiền tệ (tính bắng tiền hay bằng gạo) - mức sống ( bao gồm lương thực, nhà ờ, mức sống văn hóa ) - ĐBSCL vẫn nghèo hơn ĐBSH - bởi lẽ khi nghèo về lương thực - thì khó có thể giàu về nhà ở và đời sống văn hoá .

Đó là cái nghèo mà anh Lâm văn Bé đã nhìn qua những con số có giá trị của những chương trình nghiên cứu thống kê khoa học . Và sau đây là cái nghèo miền Nam qua cái nhìn tận mắt , nghe tận nơi của người viết : Cái nghèo ở Việt Nam bao gồm cả thành thị lẫn thôn quê là cái nghèo thiếu trước hụt sau, ăn bữa sáng lo bữa chiều - cái nghèo của một nông dân , nhà dột nát .. khi trời mưa lúc ban đêm..không có chỗ để nằm phải tìm một góc nhà, phủ cái mền rách lên người ngồi run cằm cặp.. trước từng cơn gió lạnh buốt lùa vào căn nhà trống hốc... Cái nghèo của một người đi mượn tiền , muợn gạo.. tới ngày hẹn không tiền trả.. Cái nghèo của một thanh niên thất nghiệp .. cha bị lao phổi không tiền mua thuốc nằm ho sù sụ..mẹ bơi xuồng đi bán bắp nấu không đủ gạo cho một đàn con 4 đứa, mũi dãi lòng thòng đang bốc đất cát chơi ngoài sân .

Tục ngữ bình dân có câu : Ít ai giàu 3 họ, khó 3 đời .- Có. Tôi quen biết ông Sáu S. làm nghề chày lưới.. ở sông Long Hồ. Đời con là anh Tư Te tiếp nối nghề nầy : nghề đi nhủi tép .. Và trên bờ sông Long Hồ năm nay ( 2007 ) tôi thấy vợ chồng một cậu thanh niên tên M. vừa cặp xuồng vào bến, đem miệng nhủi còn dính đầy rong rêu phơi trên mái nhà lá đã nhuộm màu thời gian bạc thếch.. Hỏi thăm thì té ra là con của Tư Te .Đời ông nội - nghèo ! Đời cha nghèo ! Đời cháu cũng nghèo! Khó 3 đời đó. Cọng Sản đổi đời cho người giàu thành nghèo - không đổi đời cho người nghèo thành giàu ..Người nghèo vẫn tiếp tục nghèo.

Nói chung thì nông dân Việt Nam chiếm 85% dân số mà đất không đủ để canh tác - còn công nghiệp không có khả năng biến nông dân thành thợ thuyền ..trong khi dân số lại gia tăng quá tải . Cho nên thất nghiệp không thể tránh . Nghèo là hiện thực . Tiến sĩ Lê đăng Doanh trong một bài phổ biến trên mạng, viết : ''Nông dân đã nghèo,đất đã kém đi ,nhưng mỗi năm thêm 1 triệu miệng ăn, lấy đâu ra mà ăn. Lao động vất vả mỗi ngày trên 8m2 đất thì lấy gì mà giàu có được ? ''

MIỀN NAM - 32 NĂM DƯỚI CHẾ ĐÔ C.S ..

Kinh tế Việt Nam - trong đó có miền Nam - có chút tiến bộ - so từ thời kỳ bao cấp đến thời kỳ mở cửa . Nhưng chỉ là tiến bộ với chính mình.

Đối với các nước khác trong vùng thì còn lẹt đẹt .. cầm lồng đèn đỏ... Và điều quan trọng là sự phát triển nầy có đem lại phúc lợi cho dân chúng qua sự tái phân lợi tức quốc gia ,để tài trợ các chương trình y tế ,giáo dục ( hiện nhiều người nghèo không có tiền đóng học phí bậc Tiểu học cho con ) - các chương trình tạo công ăn việc làm , phát triển nông nghiệp, xây dựng hạ tầng cơ sở hay không ? Hay là phát triển bằng những con số báo cáo rổng tuếch ? Lợi tức tạo được đã bị cả hệ thống của những con virus tham nhũng đục nát cơ thể .. Và hiện tại - muốn phát triển công nghiệp - nhà cầm quyền địa phương - theo lệnh Đảng - mở rộng khu công nghiệp, khu du lịch, đã quy hoạch lấy đất, phá mồ phá mả , chiếm nhà dân một cách bạo ngược.. Lòng dân phẩn uất, kêu la than khóc.. Oán hận ngút trời xanh ! (19 Tỉnh miền Nam biểu tình khiếu kiện trước trụ sở quốc hội 2 Sàgòn ) . Như vậy có gọi là phát triển không ?

KẾT LUẬN

- 32 năm nhìn lại :Người ta thấy miền Bắc đã ''giải phóng'' dân Sàigòn ra khỏi đất đai, nhà cửa của họ . Họ phải rút vô hẻm, ra ngoại ô hay về quê bằng nhiều chánh sách khác nhau . ''Giải phóng'' miền ĐBSCL ra khỏi sự trù phú do thiên nhiên ưu đãi từ nhiều thế kỷ.''Giải phóng''quân nhân, viên chức chế độ cũ ra khỏi nhà, để đưa họ vào các trại tù cải tạo hoặc đẩy họ ra biển ...'' Giải phóng'' phụ nữ miền Tây, để họ được tự do đi làm ''vợ nô lệ'' , đi làm điếm ở Kampuchia, Thái Lan ..

- 32 năm nhìn lại : Người ta thấy Việt Nam trở lại thời kỳ mua bán nô lệ như thời Trung cổ. Phụ nữ Việt Nam bị bán đấu giá trên E-bay Taiwan website(2003) - bị trưng bày trong lồng kính, cũng để bán đấu giá như một con súc vật ở Singapour (2005) . Chỉ trong năm 2005 - có khoản 400.000 phụ nữ và trẻ em bị bán ra ngoại quốc .. (Theo UNICEF - LHQ và Bộ Tư Pháp Việt Nam )

- 32 năm nhìn lại : Mượn lời nhà báo Claude Allegre, báo L'express ngày 29-8-2002 :'' Người ta không thể cho qua một cách im lặng những Khơ me đỏ, những trại tập trung ở Cambodia và những cuộc tàn sát man rợ ở đó. Và Việt Nam không được biết đến như là một chế độ nhân đạo hơn . Dưới cái cớ là dân tộc can đảm nầy đã chiến thắng các siêu cường quốc - người ta đi đến chỗ quên đi một nền độc tài đẫm máu đang thực thi trên xứ sở đó ''

- 32 năm nhìn lại : Miền Bắc XHCN rõ ràng đã thiết lập một nền đô hộ miền Nam - khắc nghiệt, tinh vi hơn cả thời Pháp thuộc . Và điều quan trọng trên hết là Việt Nam đang đứng trước hiểm họa mất nước. Một trí thức Việt Nam lên tiếng cảnh cáo : '' Việt Nam đang đứng trước hiểm họa mất nước. Mất cả đất đai, sông núi và dân tộc.Việt Nam sẽ trở thành một tỉnh lẻ của Tàu (Trích Người việt hải ngoại - Nguyễn văn Trấn)

PHÓ THƯỜNG DÂN
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Sự Thật Phơi Bày

Post by uncle_vinh »

Việt Nam nợ nước ngoài gần 28 tỷ đôla


Tin cho hay mức nợ nước ngoài của Việt Nam đã lên tới gần 28 tỷ đôla, tương đương 39% GDP năm 2009.

Báo Thanh Niên trích nguồn Cục Quản lý nợ và tài chính đối ngoại thuộc Bộ Tài chính cho biết đây là thống kê tính tới ngày 31/12/2009.

Con số 28 tỷ đôla bao gồm nợ của Chính phủ Việt Nam và nợ được Chính phủ bảo lãnh.

Năm 2010, Chính phủ Việt Nam sẽ phải thanh toán hơn 1 tỷ đôla tiền trả nợ.

Cục Quản lý nợ và tài chính đối ngoại cho rằng tỷ lệ nợ 39% GDP là "ở ngưỡng an toàn, vì theo tiêu chí của Ngân hàng Thế giới trên 50% mới bị coi là nợ nhiều".

Tuy nhiên, cơ quan này cảnh báo nợ nước ngoài của Việt Nam đang có xu hướng tăng dần vì năm 2005 mức nợ chỉ chiếm khoảng 32% GDP.

Đây là con số chính thức công bố về mức nợ nước ngoài của Việt Nam mà lâu nay các số liệu đưa ra không đồng nhất.

Mới đây ngay tại kỳ họp Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Quốc hội Nguyễn Văn Thuận đưa con số 42% GDP.
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Sự Thật Phơi Bày

Post by uncle_vinh »

Việt Nam không có tù nhân tôn giáo và chính trị?
Đỗ Hiếu, phóng viên RFA
2010-07-25

Lên tiếng khi đến Hà Nội tham gia hội nghị an ninh cấp vùng ASEAN, Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton yêu cầu Việt Nam cải thiện quyền làm người, trong đó có việc trả tự do cho tù nhân chính trị và tôn giáo, không can thiệp vào hoạt động tôn giáo và cho phép người dân được tự do truy cập Internet.

Image
Photo courtesy PGHH.org
Ngày Lễ Đản Sanh Đức Huỳnh Giáo Chủ tổ chức tại An Giang bị công an ngăn chặn trong một buổi hành lễ trước đây.

Phía Hà Nội, lâu nay vẫn khẳng định ở Việt Nam không có tù chính trị, chỉ có phạm nhân hình sự, và cũng không có chuyện đàn áp tôn giáo. Sự thật ra sao? Xin mời quý vị nghe phát biểu của ông Võ Văn Diêm, em của tu sĩ Phật Giáo Hòa Hảo Võ Văn Thanh Liêm, và bà Vũ Minh Khánh, vợ luật sư Nguyễn Văn Đài. Cả hai nhà dân chủ này còn đang ngồi tù về tội chống phá nhà nước, âm mưu lật đổ chế độ. Xin nhường lời cho anh Đỗ Hiếu.
Người tù Võ Văn Thanh Liêm

Từ Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long, ông Võ Văn Diêm xác nhận Việt Nam còn giam cầm nhiều tù nhân tôn giáo trong đó có người anh của ông được các đồng đạo Phật Giáo Hòa Hảo gọi là “Ông Năm”:

“Về chính trị thì tôi không có tham gia và tôi không biết, nhưng mà có tù tôn giáo là do nơi nhà nước - chế độ của cộng sản bây giờ vẫn còn tiếp tục đàn áp ngành tôn giáo.”

Ông kể lại những khó khăn mà tôn giáo của ông phải đối mặt, khi cử hành các sinh hoạt tâm linh và tín ngưỡng thời gian trước đây:

“Mấy ổng ra cũng như một đợt tổng tấn công là lúc anh Năm tui đang sửa cầu đường, ra cách khỏi chùa 300 mét, năm bảy người dùng roi điện chích rồi đánh anh Năm tui, rồi đem lên xe chở đi mất tích khoảng 40 ngày.

Rồi tới lúc đó mấy ổng tấn công vào chùa, gặp mấy đứa cháu nó đi ra mần tiếp thì họ cũng còng, đè xuống, đứa nào la thì nhét khăn vô họng, còng hết. Họ vô chùa, phá hàng rào, vô chùa khoảng trăm mấy hai trăm người, có đủ các đoàn thể hết là công an và các ban tổ chức này kia hết. Chánh quyền lớn, chức phận lớn thì lấy đồ lớn, còn những người mà nhỏ nhỏ thì lấy theo nhỏ, là lấy cũng như radio, ống quẹt, đèn chá, đủ thứ hết, lấy hết trơn. Rồi lấy trong khoảng 3 giờ chiều mấy ổng mới rút đi.

Tui cũng không biết là nói sao bây giờ. Nếu mà mình nói ra thì nó cũng phải càng khổ thêm cho cái thân của mình. Mà hồi lúc tui còn đang đi làm, chánh quyền hay ngăn trở tui, không cho tui đi làm. Làm cái chuyện gì thì hay bị ngăn trở, kiếm chuyện bắt bớ, hoặc giả trong gia đình. Rồi bây giờ lại cắt cái nguồn điện của tui và của bà già, với của chị tui. Cái nguồn điện của tui là trong chùa Quang Minh Tự tới bây giờ mấy ổng cũng không giải quyết thành ra một thời gian sau này tui mới tạm xin nguồn điện của người ta để xài ké đến bây giờ.”

Ông nói thêm, trong trại giam tu sĩ Võ Văn Thanh Liêm được yêu cầu phải nhận tội nhưng ông này đã từ chối và đã bị áp dụng hình phạt:

“Tui cũng có gặp anh em tù nhân của mình cũng như Vương Minh Trí, và những anh em khác thì nói đúng ra tui cũng không nhớ tên nhiều nhưng mà cũng thấy có. Nhưng mà số phần anh Năm tui thì tui rõ biết những anh em ở tù đó.

Lúc đó thời gian ra và chánh quyền ở trong địa phương này, trong khoảng anh Năm tui ở tù gần 3 năm, thì chánh quyền ở địa phương và ở tỉnh ra khuyên anh Năm tui phải nhận tội thì nhà nước sẽ khoan hồng, thì anh Năm tui mới nói "Tui đâu có tội. Mấy ông bắt đưa tui đi gửi đây. Còn cái vụ mấy ông lấy đồ của tui thì chừng nào tui về thì mấy ông trả tui mới biết mà nhận chớ giờ tui đâu có biết đồ gì mà nhận. Còn điều thứ ba nữa tui đâu có được ân huệ mà mấy ông cho tiền tui, bị vì tui không có cầm tiền. Thứ hai nữa là tiền con cháu tui cho xài hổng hết mà tui đâu có xài tiền đâu. Mấy ông cũng thông cảm cho qua về cái việc đó."

Rồi ở bên tỉnh An Giang biết vụ anh Năm tui hổng buộc được nên trong thời gian năm mười ngày thì mấy ổng mới chở về bắt buộc anh Năm tui phải đi lao động. Tuổi sáu mươi rồi, gần bảy mươi rồi, thì lúc đó anh Năm tui mới tuyệt thực, mất nước là ảnh chết, nhưng mà anh Năm tui chết thì không đáng tiếc mà tui đáng tiếc cho người dân Việt Nam mình, và anh Năm tui là người tôn giáo mà lại để đi, cưỡng ép chế cho anh Năm tui chết như vậy là mấy ông cũng tổn thất lớn với quốc tế.”


Image
Một nơi tu học của tín đồ PGHH Cần Thơ bị công an đập phá. Ảnh do ông Huỳnh Văn Hiệp cung cấp

Là người thường đi thăm nuôi người anh của ông còn ngồi tù ở Xuân Lộc, Đồng Nai, ông Võ Văn Diêm nói lên cảnh tượng đau lòng từng chứng kiến nơi ngục thất:

“Tui có đi thăm tù thì tui thấy do nơi cô Nguyễn Thị Dung, vợ của Võ Văn Bửu, bịnh nhiều lắm. Đôi khi anh em đi thăm thì không có ai thăm được, chỉ có một đứa cháu gái vô thăm được thôi. Mà mỗi lần đi thăm thì phải hai người kè (cô Dung) ra. Và đôi khi thuốc gởi vô thì đôi khi mấy ổng nhận, có khi mấy ổng hổng nhận. Không biết có được uống thuốc đầy đủ hông. Tui thấy bây giờ cái phần cô Dung thì thấy bịnh nặng nề, còn mấy anh em kia thì cũng có bịnh vậy nhưng mà nó cũng đỡ hơn.”

Dịp này ông kêu gọi công luận thế giới để xin được sự quan tâm đối với những chính trị phạm còn nằm trong vòng lao lý:

“Tui cũng có một yêu cầu nho nhỏ. Nhà nước Việt Nam phải lắng tai nghe người dân Việt Nam, kêu gọi giới quốc tế và những anh em hải ngoại nghe lời nói chơn thật của tui, mà phải cứu xét về chân lý của người đạo, mà để bắt anh Năm tui đi tù đày cùng những anh em khác, và những anh em tù về tôn giáo. Còn nói về chánh trị thì tui không có nắm rõ, mà tui cũng khuyên nhà nước cũng phải nên cứu xét lại mà tha cho những người tù bị hàm oan. Nhà nước phải nhớ lại những lời nói của tui thật là chơn thật. Và xin cảm ơn quý Đài và các anh em ở ngoài nước.”
Tuyên truyền chống phá nhà nước?

Kế đó, qua câu chuyện với chị Vũ Minh Khánh, vợ luật sư Nguyễn Văn Đài còn đang ngồi tù về tội tuyên truyền chống phá nhà nước, người phụ nữ kém may mắn này giải bày nổi oan ức của chồng:

“Thời gian trôi qua thì đúng là em rất là buồn và không nói nên lời nữa (khóc) vì điều mà gia đình gặp phải. Thực lòng từ trước đến nay em chỉ biết có một điều rằng thấy chồng mình toàn làm những điều tốt, chưa bao giờ đe dọa một người nào, cũng chưa bao giờ cầm dao hay làm bất cứ điều gì nói về vấn đề gây bạo động, hoặc là ăn trộm ăn cắp của ai cả, mà chỉ toàn đi giúp đỡ con người.

Nhưng mà em cũng thấy rằng khi mà chồng mình bị bắt như vậy thì thật lòng là người vợ, em rất bàng hoàng và kết luận của tòa án như vậy thì em thấy rất là nhiều điều oan ức. Em cũng viết rất nhiều văn thư, thậm chí qua từng cấp bậc nhà nước Việt Nam, từ cấp đầu tiên là an ninh điều tra, sau đó là ra đến tòa án sơ thẩm, sau đó phúc thẩm, và sau đó lên tòa án tối cao và tất cả các nơi, và em lên cả Mặt Trận Tổ Quốc, cũng như đến rất nhiều văn phòng Quốc Hội, và em đã còn gửi thư và còn có những điều luật, những sự tham khảo của các luật sư và mình cũng viết ra được những lý luận về chồng mình.

Nhưng mà rất đáng buồn là không ai đoái hoài đến cả. Chồng em thì vẫn luôn luôn bị họ nói rằng là kết án tù hình sự thì điều đó em cũng không tránh khỏi cảm tưởng rất là buồn.”

Dịp này, bà Khánh cũng mong mỏi luật sư Đài sớm về sum họp gia đình, đồng thời bà cám ơn sự vận động của quốc tế cho trường hợp của ông:

Image
Luật sư Nguyễn Văn Đài và luật sư Lê Thị Công Nhân bị mang ra xét xử tại Hà Nội (2007). Photo courtesy of VietNamNet.

“Và cũng rất cảm ơn sự quan tâm của bà ngoại trưởng cũng như tất cả những anh chị em ở bên ngoài vẫn có tinh thần yêu thương, ủng hộ cũng như giúp đỡ gia đình, là nguồn an ủi, giúp đỡ, động viên rất là lớn trong những ngày tháng vừa qua, thì cho em được gửi lời chân thành cảm ơn mọi người rất là nhiều.

Dạ, chồng em đến thời điểm này là 3 năm 5 tháng, còn 7 tháng nữa mới mãn án, anh ạ. Vâng ạ, vâng, em cảm ơn anh ạ.”

Hầu hết báo đài do nhà nước Việt Nam kiểm soát đều không nói đến việc Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton thúc đẩy nhân quyền khi bà đến họp ở Hà Nội mà chỉ trích lời của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá cao kết quả hội đàm của bà Clinton với lãnh đạo Việt Nam nhằm đẩy mạnh hợp tác giữa đôi bên về ngoại giao, kinh tế, đầu tư, thương mại, giáo dục, y tế, ứng phó với biến đổi khí hậu, vì hai nước còn nhiều tiềm năng để triển khai quan hệ đối tác vì lợi ích chung.

Dư luận mong rằng báo chí Việt Nam cần làm tốt hơn nữa bằng cách đưa tin cả hai chiều giống như báo chí ngoại quốc. Chỉ có như thế thì mới hy vọng nền dân chủ, nhân quyền mà lãnh đạo Hà Nội thường nhắc nhở mới có cơ hội phát triển và trở thành hiện thực.
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Sự Thật Phơi Bày

Post by uncle_vinh »

Đặc tả nhân quyền theo kiểu Việt Nam (phần 1)
Trân Văn, thông tín viên RFA
2010-08-07

Nhiều quốc gia, tổ chức phi chính phủ vẫn liên tục thúc giục chính quyền Việt Nam hãy tôn trọng các quyền cơ bản của con người, trả tự do cho những tù nhân bị giam giữ vì bày tỏ sự khác biệt về quan điểm chính trị hoặc vì hoạt động tôn giáo, không can thiệp vào hoạt động tôn giáo,…

Image
RFA photo/Quỳnh Như
Dân biểu Joseph Cao của tiểu bang Louisiana (đứng giữa) tại buổi họp báo trước trụ sở Quốc Hội Hoa Kỳ lên tiếng về tình trạng nhân quyền tại VN hôm 22/7/2010

Còn Việt Nam vẫn liên tục nhắc đi, nhắc lại rằng, không thể biến quan điểm của quốc gia nào đó về nhân quyền thành tiêu chuẩn, rồi áp đặt tiêu chuẩn đó cho Việt Nam, vì mỗi quốc gia đều có bản sắc văn hóa riêng, có luật pháp riêng...

Vậy Việt Nam đang thực thi các cam kết với cộng đồng quốc tế về quyền con người như thế nào? Mời quý vị nghe Trân Văn tổng hợp và tường trình bài đầu tiên trong loạt bài “Đặc tả nhân quyền theo kiểu Việt Nam”…

Chính quyền bảo không

Trên bình diện quốc tế, có rất nhiều văn kiện liên quan đến nhân quyền, ràng buộc tất cả các quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc.

Ngoài việc xác định mọi cá nhân đều có quyền được sống, được bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ, được tự do về tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo, được tự do ngôn luận, được tự do hội họp,… các văn kiện quốc tế về nhân quyền còn khẳng định, những hành vi xâm phạm nhân quyền là tội ác chống lại các giá trị phổ quát của nhân loại. Tùy tính chất và mức độ, những kẻ phạm tội có thể trở thành đối tượng của “Nghị quyết về các nguyên tắc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực truy tìm, bắt giữ, dẫn độ và trừng phạt các cá nhân phạm tội ác chiến tranh và tội ác chống loài người”, “Quy chế Tòa hình sự quốc tế”.

Đây là một trong những lý do khiến chính quyền Việt Nam thường xuyên phủ nhận cáo buộc của nhiều thành viên trong cộng đồng quốc tế, về việc đàn áp các cá nhân bất đồng về chính kiến và bác bỏ những lời kêu gọi hãy trả tự do cho tù chính trị. Theo chính quyền Việt Nam, tại Việt Nam không có tù chính trị mà chỉ có những người vi phạm luật hình sự.

Có đúng là các nhà tù tại Việt Nam không hề có tù chính trị? Những người từng bị kết án, bị giam giữ vì lý do chính trị nghĩ gì trước những tuyên bố của chính quyền Việt Nam? Chúng tôi đã trao đổi với ba người từng bị giam tại trại giam Z30A, tọa lạc tại huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai. Đó là các ông: Nguyễn Hữu Phu, bị bắt năm 1990, bị kết án 10 năm tù về tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”, được trả tự do năm 2009, nay đang cư trú tại Thừa Thiên – Huế. Nguyễn Bắc Truyễn, bị bắt năm 2006, bị kết án 42 tháng tù về tội “tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN Việt Nam”, được trả tự do vào giữa tháng 5 vừa qua, đang cư trú tại TP.HCM. Ông Nguyễn Ngọc Quang, bị bắt năm 2006, bị kết án ba năm tù về tội “Tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN Việt Nam”, được trả tự do năm 2009, đang cư trú tại TP.HCM để tìm câu trả lời.

Còn trong tù thì…

Mời quý vị nghe một phần cuộc trao đổi giữa chúng tôi với ông Nguyễn Hữu Phu…

Trân Văn: Việt Nam thường bảo rằng, tại Việt Nam không có tù chính trị cho nên tôi muốn hỏi anh cho rõ ràng, đó là, ở trong trại giam thì các anh được gọi là gì?

Nguyễn Hữu Phu: Chúng tôi được gọi là tù chính trị.

Trân Văn: Các anh được gọi là tù chính trị là do quản giáo gọi, hay các anh tự nhận, hoặc là những người bạn tù khác gọi các anh?

Nguyễn Hữu Phu: Thứ nhất là quản giáo gọi. Bình thường họ vẫn gọi là tù chính trị nhưng mà khi họp hành thì họ gọi chúng tôi là người vi phạm an ninh quốc gia.

Trân Văn: Như vậy là các anh có tên gọi riêng?

Nguyễn Hữu Phu: Vâng!

Trân Văn: Còn tù hình sự thì họ gọi là gì?

Nguyễn Hữu Phu: Vẫn gọi là tù hình sự thôi anh.

Trân Văn: Họ có chia nhóm giữa tù hình sự với tù chính trị không?

Nguyễn Hữu Phu: Họ vẫn chia nhóm, họ tách riêng. Đời nào họ cho chúng tôi gần được tù hình sự.

Trân Văn: Như vậy là với bên ngoài, Việt Nam phủ nhận việc có tù chính trị nhưng trong trại giam thì lãnh đạo trại giam và các quản giáo vẫn gọi các anh một cách rõ ràng là tù chính trị?

Nguyễn Hữu Phu: Vâng, là tù chính trị. Có sự tách biệt. Nhà giam chúng tôi là nhà giam tách biệt và khu giam đó như một khu cách ly.

Để phối kiểm các thông tin do ông Nguyễn Hữu Phu cung cấp, chúng tôi cũng đã nêu những câu hỏi tương tự với ông Nguyễn Bắc Truyển…

Trân Văn: Thưa anh Truyển, Việt Nam vẫn tuyên bố, tại Việt Nam không có tù chính trị, chỉ có những người vi phạm luật hình sự bị phạt tù. Thế thì tại sao anh gọi những người bạn cùng ở tù với anh là tù chính trị?

Trong nhà tù có sự phân loại và có sự khác biệt nào về cách đối xử giữa những người như các anh với tù thường phạm không? Chẳng hạn quản giáo gọi các anh là gì? Tù thường phạm gọi các anh là gì?

Nguyễn Bắc Truyển: Chúng ta cũng hay thấy là nhà nước CSVN thường tuyên bố rằng không có sự đối lập, không có tù chính trị. Mọi người đều đứng dưới lá cờ của Đảng Cộng sản. Tôi xin được nói đó là sự bịp bợm, dối trá và ngụy biện.

Họ đã quy chụp cho những người bất đồng chính kiến, hoạt động chính trị và tôn giáo là những người phạm tội hình sự. Rồi họ đem tất cả những người đó ra xử bằng bộ luật hình sự. Hành động đó làm cho bản thân họ trở thành thấp kém khi nói chuyện với cộng đồng quốc tế.

Tôi không phải là nhà lý luận để có thể đi sâu vào ngôn từ, chữ nghĩa nhưng trong trại giam thì chính những người cảnh sát trại giam vẫn gọi chúng tôi là tù chính trị, “các anh bị giam trong khu chính trị”. Tất cả các vật dụng, nồi cơm, bình đựng nước uống, vân vân,… đều được đánh dấu bằng chữ “C.T” – có nghĩa là chính trị. Như vậy hóa ra những người cảnh sát trại giam còn hiểu biết hơn các vị “đỉnh cao trí tuệ”, khi họ còn phân biệt được đâu là hoạt động chính trị, đâu là phạm tội hình sự.

Còn những người tù thường phạm thì họ hiểu rõ và họ luôn luôn gọi chúng tôi là tù chính trị hoặc là tù tôn giáo. Họ có một sự kính trọng đặc biệt đối với chúng tôi.

Những người cán bộ trại giam thì dè dặt hơn. Có khi họ gọi chúng tôi là những người bất đồng chính kiến, tù an ninh quốc gia.

Còn cách giam giữ thì anh thấy là hoàn toàn khác với tù thường phạm. Chúng tôi bị giam trong một khu riêng biệt. Đi lao động thì xuất trại cuối cùng nhưng khi về nhập trại thì ưu tiên số một. Có nghĩa là khi chúng tôi về thì có rất nhiều người tù thường phạm đứng chờ nhập trại nhưng chúng tôi được ưu tiên vào trước. Chúng tôi cũng không phải sinh hoạt tập thể chung với tù thường phạm vào sáng thứ hai hàng tuần, cũng không phải chào cờ. Chúng tôi không được đi mua hàng trên canteen mà có người xuống ghi đăng ký ở tại buồng giam, sau đó họ đem xuống tận buồng giam giao cho chúng tôi. Đặc biệt là khi gia đình chúng tôi đi thăm thì chúng tôi có khu vực giam riêng và luôn luôn người dẫn chúng tôi đi thăm gặp là an ninh của trại giam.

Anh em thường phạm nào mà tiếp xúc với chúng tôi, nhẹ thì bị cảnh cáo, còn nặng thì kỷ luật cùm chân hoặc là chuyển trại. Trong khi đó thì anh em tù thường phạm tiếp xúc với nhau rất là thoải mái.

Image
Từ phải qua: ông Nguyễn Anh Hảo, cô Nguyễn Thu Trâm, ông Nguyễn Bắc Truyển và ông Nguyễn Ngọc Quang. Hình do RFA thính giả gởi.

Cùng trao đổi về vấn đề này, ông Nguyễn Ngọc Quang nhận định: “Nhà nước Việt Nam tuyên bố rằng ở Việt Nam không có tù chính trị nhưng lại kết tội người ta về hành vi chính trị. Họ nói lấy được thôi, câu nói, Việt Nam hoàn toàn không có tù nhân chính trị chỉ nói với thế giới bên ngoài. Còn ngay ở bên ngoài, chính giám thị nói thẳng, các anh là tù nhân chính trị.”

Trân Văn: Ngay trong trại giam thì có sự phân định giữa tù chính trị và tù hình sự không? Sự phân định đó thể hiện như thế nào? Nó thể hiện trong cách gọi của giám thị trại giam, trong cách gọi của các tù nhân hay là nó thể hiện trong việc phân loại và việc giam giữ cũng như là cách đối xử?

Nguyễn Ngọc Quang: Nó thể hiện ở ba điểm. Thứ nhất là cách gọi của cán bộ trại giam. Cán bộ trại giam gọi chúng tôi là tù chính trị và gọi những người kia là tù thường phạm.

Ông Nguyễn Ngọc QuangThứ hai, phân biệt bằng đối xử bởi vì chúng tôi bị giam chung chứ không giam riêng với những người tù thường phạm. Chúng tôi không được quyền học, không được quyền có giấy bút, không được quyền gọi điện thoại ra ngoài mỗi tháng một lần như nội quy thi hành án đã quy định. Chúng tôi không được tiếp xúc với người khác, trừ trường hợp lao động. Lao động thì chúng tôi phải lao động tập trung. Có nghĩa là tù chính trị lao động riêng với nhóm tù chính trị và không được gần gũi với những người tù thường phạm.

Người tù thường phạm nào gần gũi với chúng tôi thì chắc chắn sẽ bị đi cùm.

Điểm thứ ba để phân định là mỗi lần viết kiểm điểm, chúng tôi buộc phải nhận đã có hành vi chống nhà nước này. Hành vi chống nhà nước chính là hành vi chính trị.

Đến đây thì cuộc trò chuyện với những cá nhân từng bị tù do bày tỏ sự bất đồng về quan điểm chính trị, lên tiếng kêu gọi và vận động thay đổi thể chế chính trị tại Việt Nam theo chiều hướng tôn trọng tự do, dân chủ, chuyển sang một hướng khác. Đó là khi phải đối diện với tình trạng mất tự do và môi trường khắc nghiệt của nhà tù, tù chính trị nghĩ gì và ứng xử ra sao? Mời quý vị đón nghe bài kế tiếp.
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Sự Thật Phơi Bày

Post by uncle_vinh »

Khi người dân đọc Tạp chí Nhân Quyền
Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok
2010-08-10

Hồi trung tuần tháng bảy vừa qua, chính phủ Hà Nội cho ra mắt Tạp chí Nhân Quyền, trong đó có bài viết của thứ trưởng Bộ Công An, thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng, cho rằng tại Việt Nam không có chuyện vi phạm nhân quyền.

Nhiều người trong và ngoài nước đã lên tiếng về bài viết đó cho là không đúng thực tế tại Việt Nam. Ngày 5 tháng 8 vừa qua, một thư ngỏ gửi cho ông thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng nêu ra một số trường hợp vi phạm trầm trọng quyền con người ở Vịêt Nam, cũng như yêu cầu chính phủ Việt Nam thực thi những điều liên quan được qui định trong Hiến pháp.

Image
Một sạp bán báo trên đường phố Hà Nội. AFP

Nhân quyền là vấn đề toàn cầu

Tác giả bức thư ngỏ là ông Nguyễn Anh Dũng, hội viên Hội Cựu Chiến Binh Việt Nam, ngụ tại Hà Nội. Gia Minh hỏi chuyện ông về bức thư ngỏ đó. Trước hết ông phản biện về lập luận mà các quan chức cao cấp Hà Nội cho rằng Việt Nam có những đặc trưng riêng nên không thể theo những chuẩn mà Phương Tây nêu ra về nhân quyền.

Ông Nguyễn Anh Dũng: Tôi cũng có nghe lãnh đạo Việt Nam nói vấn đề nhân quyền theo đặc điểm, văn hóa, xã hội của mỗi nước; không thể đem nhân quyền nước này áp dụng cho nước kia. Thực ra theo tôi cách nói đó chỉ là cách chống chế, bảo vệ của họ thôi. Trong thực tế, nhân quyền là vấn đề toàn cầu, không phải riêng của quốc gia nào.

Tất nhiên, mỗi nước có nền văn hóa riêng, nhưng không thể dựa vào văn hóa xã hội đó để bác bỏ các quyền mà chính bản thân họ ghi trong hiến pháp và pháp luật. Những điều đó cũng được thể hiện trong các công ước quốc tế. Người dân Việt Nam đòi quyền con người, những quyền mà chính bản thân luật pháp nước Việt Nam ghi nhận, chứ không đòi gì khác hơn.
Những điều đã nói trong Điều 50 của Hiến Pháp Việt Nam mà được thực hiện đúng thì dân chúng tôi sướng quá. Chỉ có điều họ nói một đằng, làm một nẻo và trở thành đường lối lãnh đạo của Nhà Nước Cộng sản này rồi. Chứ thực ra nước nào chẳng có đặc điễm văn hóa riêng của nước đó: Mỹ, Anh, Pháp… nước nào cũng có; nhưng đó là những nét đặc trưng của nước đó thôi; còn điều gì quốc tế đã công nhận, đã được hình thành và công nhận trong hiến pháp nước đó thì phải thực hiện một các nghiêm chỉnh. Đó mới là quyền con người.

Nhân quyền không của riêng ai

Gia Minh: Một số tổ chức quốc tế tiến hành làm khảo sát về sự lạc quan cuộc sống, thì kết quả cho thấy ‘đa số’ người Việt Nam được hỏi cho rằng họ bằng lòng với cuộc sống hiện tại; mà như thế thì hẳn nhiên quyền con người của họ không bị vi phạm?

Ông Nguyễn Anh Dũng: Tôi cũng chưa biết cơ quan nào thống kê và con số đó có chính xác hay không. Thực tế Việt Nam hiện nay có hiện tượng này: những người mà sống được nhờ vào cơ chế hiện nay, tất nhiên họ ủng hộ rồi, ví dụ các quan chức mà quyền vụ- chức hạn cho họ sống trên pháp luật; rồi đến những doanh nghiệp làm ăn, có tiền, phát triển được.

Còn người dân bằng lòng vì ở Việt Nam có hiện tượng gần như ‘cam chịu’ . Chẳng lại gì: dân Việt Nam sau bao nhiêu năm chiến tranh quá khổ, người ta không muốn chuyện ‘nồi da, nấu thịt’, không muốn chuyện to lớn nữa, và người ta cam chịu. Còn đối với thực tế cơ chế hiện nay, người ta ngán lắm rồi; đa số người dân khổ. Cán bộ công chức trong bộ máy nhà nước nếu không có chức quyền, không có bổng lộc, sống bằng đồng lương, cuộc sống khó rồi; còn người lao động bình thường phải chịu đủ thứ thuế má. Xin nêu ra một ví dụ: vừa qua tôi đi làm khai sinh cho đứa cháu mới sinh, ủy ban nhân dân địa phương thu 200 ngàn, nói là tiền đóng góp tự nguyện cho qũy bảo vệ- chăm sóc trẻ em. Tôi cũng đóng cho qua chuyện, nhưng về nghĩ lại thì đó là thứ thuế thân mà trước đây đâu có.

Image
Công an và nhân quyền. RFA file

Cho nên nói ‘đa số’ người dân mà không biết số chính xác bao nhiêu thì những nguời dân lao động và những công chức bình thường không có quyền chức đều ngán chế độ, ngán đồng lương mà không dám nói. Nếu nói ra thì thủ trưởng cơ quan sẽ không cho lên lương, thậm chí có thể bị điều đi chỗ khác, bị đình chỉ công tác nên người ta sợ. Người ta ‘an phận, thủ thường’ để mà làm ăn; theo tôi nghĩ bằng lòng là như vậy đó.

Yêu cầu thực hiện Hiến pháp không phải là cái tội

Gia Minh: Có những người dám công khai nói lên ý kiến, khác với đường lối của Nhà Nước và bị bỏ tù vì nhà nước theo Điều 88 Bộ luật hình sự, và khi nói với nước ngoài thì Hà Nội cho rằng không có tù nhân chính trị tại Việt Nam?

Ông Nguyễn Anh Dũng: Bảo thế, thực ra tôi cũng chưa phân biệt được thế nào là chính trị. Tôi chỉ nói những điều tối thiểu trong cuộc sống mà thế giới công nhận đó là quyền con người. Tôi xin hỏi nếu không làm điều gì phạm pháp mà tự dưng lại bị chính quyền dùng những biện pháp, bản án trái pháp luật, tước đọat quyền sống của người ta thì họ phải đấu tranh.

Lý thuyết theo nghị quyết 08 và 49 của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam nói về vấn đề cải cách tư pháp; nhưng ở Việt Nam có tình trạng án ‘bỏ túi’ mà chính báo Công an, An Ninh Thế giới có bài viết về tình trạng đó: ra toà đâu được nói thật.
Bản thân tôi cũng không ủng hộ những người làm các việc ‘quá đà’, gây nên những xáo trộn lớn; nhưng điều gì được phép cần phài thực hiện. Tại sao khiếu nại tố cáo không trả lời: đó có phải vi phạm nhân quyền không? Chính bản thân những người đề ra luật pháp làm sai, còn người dân yêu cầu Hiến pháp cần được thực hiện chứ không làm gì sai cả.

Gia Minh: Ngoài việc yêu cầu làm đúng Hiến Pháp, thì điều ông hy vọng nhất để sao người dân có được những quyền căn bản là gì?

Ông Nguyễn Anh Dũng: Dù khổ lắm, nhưng tôi vẫn tôn trọng viết thư ngỏ gửi cho các cấp lãnh đạo Việt Nam. Dù là cơ chế nhưng tôi mong muốn khi làm sai họ phải sửa với nhau vì nếu tổ chức Đảng không xử lý thì chính quyền không xử lý được.

Tôi viết thư ngỏ nhân dịp Nhà nước Việt Nam ra Tạp chí Nhân quyền Việt Nam để người dân và thế giới hiểu nhân quyền Việt Nam thế nào; tôi hy vọng chính quyền Việt Nam cầu thị, tìm lại lòng tin của người dân.

Việt Nam trước đây là một quốc gia ‘bế quan, tỏa cảng’ không ra vào được; nay do phát triển thông tin thế giới, Việt Nam không thể bưng bít được nữa nên phải cho ra Tạp chí Nhân quyền. Trong đó thì ông thứ trưởng Công An cho rằng Việt Nam là thiên đường Xã hội Chủ Nghĩa. Đúng đó là thiên đường của những người quyền cao chức trọng vì quyền của họ đem lại cho họ rất nhiều lợi nhuận.

Người dân bây giờ không đến nỗi ngu muội khi mà bùng nổ thông tin trên Internet, dù Nhà nước Việt Nam có muốn ngăn cấm đủ điều thì cũng không thể ngăn cấm được; do đó phải cảnh tỉnh cho nhà nước biết rằng những điều mà họ làm là sai trái.

Gia Minh: Cám ơn ông về những trình bày vừa rồi.
Post Reply