Phi Chính Trị ???

Post Reply
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Phi Chính Trị ???

Post by uncle_vinh »

CHÁNH TRỊ VÀ THUA CUỘC
(POLITICS AND THE LOST WARS)

Nguyễn Bách (Montréal )


Truyên xưa kể rằng Đỗ Sinh, người xứ Tấn, là người tài hoa, văn võ tinh thông, nhưng suốt đời chỉ vui thú yên hà, làm bạn cùng mây nước. Là con nhà đại phú, Sinh rất vui với cuộc sống hiện tại nhàn tản, không phải bận tâm tới cuộc sống vật chất hàng ngày. Vua nước Tấn, An Lạc Vương, là người bạo ngược, không màng gì đến việc trị nước. Loạn lạc xẩy ra khắp nơi; dân tình đau khổ, ta thán. Giặc dã, loạn lạc nổi lên ngay tại quê hương của Sinh nhưng Sinh không bận tâm, coi việc trị nước an dân là việc của người khác.

Sinh tuyên bố KHÔNG LÀM CHÁNH TRỊ mỗi khi bị người thân thúc dục từ bỏ thái độ rửa tay gói kiếm, từ bỏ cuộc sống nhàn hạ để làm một cái gì cho quê hương đất nước. Giặc dã tràn đến quê hương của Sinh. Sinh mất tất cả tài sản, đất đai, ruộng vườn, trở nên trắng tay. Khi Sinh biết hối hận về thái độ trùm chăn, không làm chánh trị của mình thì đã quá trễ, nước đã mất nhà đã tan; thân phận của Sinh là thân phận một kẻ lưu đầy, nhưng bị lưu đầy trên quê hương của chính mình.


Tại Việt Nam , trong suốt cuộc chiến chống Cộng bảo vệ quê hương, rất nhiều người đã trùm chăn, hành sử như Đỗ Sinh. Cho đến bây giờ tại Hải ngoại, chúng ta lại vẫn được nghe đi nghe lại điệp khúc cũ KHÔNG LÀM CHÁNH TRỊ. Ta tự hỏi Chánh trị là gì?


Theo Tự điển Larousse, Chánh trị (politique) là việc điều hành đất nước, xác định các thể chế sanh hoạt (direction de l’État et determination des formes de son activité).

Theo Tự điển Canadian Dictionary ( Oxford ): Chánh trị (politics) là nghệ thuật, phương pháp cai trị trong một nước (the Art and Science of government).

Theo Việt Nam Tự điển của Nguyễn Văn Khôn, Chánh trị là việc thi hành quyền trị nước. Nghĩa rộng là lừa đảo khôn khéo như làm việc phải có chánh trị. Thiếu chánh trị khi làm việc có nghĩa là thực thà.

Thực ra hai chữ chánh trị có nghĩa rất rộng: việc đối xử, giao thiệp với nhau trong một gia đình, trong một đoàn thể, trong xã hội đều là việc chánh trị. Không làm chánh trị tức là làm chánh trị đó, làm cái KHÔNG LÀM. Việc bỏ nước ra đi làm thuyền nhân, không chịu sống với Cộng Sản là một hành vi có tính cách chánh trị. Theo những người tị nạn Cộng Sản thì đó là một hình thức bỏ phiếu bằng hai chân phủ nhận chế độ Cộng Sản. Trong ngôn ngữ thường dùng của đại chúng, hai chữ chánh trị được hiểu theo một nghĩa hạn hẹp là các tư tưởng, hành động có liên quan đến đảng phái, chánh quyền. Ta nên xác định rõ một vài từ ngữ có liên quan đến hai chữ chánh trị:

Làm chánh trị tức là trực tiếp tham dự vào các công việc có liên quan đến đảng phái, liên quan đến chánh quyền.

Lập trường chánh trị hay thái độ chánh trị là một hình thức xác định lập trường một cách tiêu cực trong một tổ chức, một tập thể.

Bất hợp tác, nhưng không tích cực chống đối, là một thái độ chánh trị. Lập trường của các người Việt quốc gia là không chấp nhận chế độ phản dân chủ Cộng Sản trên quê hương Việt Nam .

Trước ngày 30-4-1975, trong cuộc chiến đấu chống lại quân xâm lăng Cộng Sản Bắc Việt, mấy chữ KHÔNG LÀM CHÁNH TRỊ - được hiểu là đồng nghĩa với KHÔNG CHỐNG CỘNG - đã được Cộng Sản lợi dụng triệt để, làm lũng đoạn hậu phương của Miền Nam. Chắc hẳn bạn đọc còn nhớ:

Nguyên Chủ tịch của Tổng Hội sinh viên Sàigòn Huỳnh Tấn Mẫm, Chủ tịch học sinh Sàigòn Lê Văn Nuôi, Dương Văn Đầy luôn luôn hô hào sinh viên, học sinh không làm chánh trị. Những sinh viên biểu lộ ý muốn chống Cộng đều bị đe dọa hay loại trừ. Điển hình là việc ám sát Đại diện sinh viên Luật Khoa Lê Khắc Sinh Nhật hay việc bắn bị thương sinh viên Ngô Vương Toại. Toại đã may mắn được các Bác sĩ của Bệnh viện Bình Dân, Sàigòn giải phẫu kịp thời cứu sống. Sau ngày 30-4-1975, Mẫm, Nuôi, Đầy đã hiện rõ là các cán bộ Cộng Sản của Thành ủy Sàigòn.

- Ni sư Huỳnh Liên là người đã luôn luôn to tiếng khích động và cầm đầu các đoàn biểu tình xuống đường chống đối Chánh phủ của Miền Nam , hô hào đưa chánh trị ra khỏi tôn giáo. Sau khi Cộng Sản hoàn toàn chiếm được miền Nam , Ni sư Huỳnh Liên đã hiện nguyên hình là một cán bộ tôn giáo vận của Cộng Sản.

- Các phong trào đòi hỏi đưa chánh trị ra khỏi học đường, các cuộc biểu tình trong ngày ký giả đi ăn mày, đòi hỏi tự do báo chí phi chánh trị……đã tạo ra nhiều bất ổn cho xã hội miền Nam.

- Tại miền Trung, nhứt là tại Huế, nhóm người trẻ Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Ngô Kha (em rể của Trịnh Công Sơn) Trần Xuân Kiêm ….. luôn luôn hô hào đưa chánh trị ra khỏi các sanh hoạt học đường, ra khỏi tôn giáo. Trong cuộc thảm sát hồi Tết Mậu thân tại Huế, họ đã hiện hình là các cán bộ Cộng Sản rất khát máu. Họ chính là thủ phạm trong các vụ thảm sát tại đây. Mọi người đều không lạ gì về gốc tích và hành tung của anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan. Còn sinh viên Nguyễn Đắc Xuân thì không được nổi bằng anh em Tường, Phan, nhưng y đã nổi tiếng sau Tết Mậu Thân. Chính y là người đã tự tay xử tử bạn cũ là Trần Mậu Tý khi CS chiếm đóng Huế chỉ vì Tý là đảng viên Đảng Đại Việt (chuyện này đã được kể rõ trong tác phẩm GIẢI KHĂN SÔ CHO HUẾ của nhà văn Nhã Ca). ”Thi sĩ’’’ Hoàng Phủ Ngọc Tường ngày nay ung dung ngồi xe lăn Trần Xuân Kiêm là Chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Huế vào thời điểm đó. Kiêm học Trung học tại Sàigòn (trường Trung học Pétrus-Ký). Kiêm đậu Tú Tài năm 1962, sau đó y về Huế học tại Đại Học Văn Khoa, Huế. Trong Phong trào Hướng đạo, Kiêm là Tráng sinh trong Tráng đoàn Lam Sơn thuộc Đạo Đông thành của Đỗ Ngọc Yến (nguyên Chủ báo Người Việt , California , USA ). Kiêm đã có vài bài thơ được đăng báo như bài thơ sau đây:

NGÕ TỐI

Xin em bước dưới hàng cây bóng cả
Buồn mùa thu làm hết cả mầu xanh
Trong hoàng hôn tôi đếm bước một mình
Qua ngõ tối gió lùa không qua tới

Lầu cao làm mắt nhìn thêm chới với
Bầy chim về gác trọ giữa lầu chuông
Nóc giáo đường xuyên thành những vết thương
Không thương tiếc màu da trời úa máu

Kiêm không lộ mặt như Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường … nhưng Kiêm đích thực là người giữ vai trò chánh, ẩn mình trong bóng tối, đứng đằng sau các vụ ruồng bố, thảm sát hàng ngàn đồng bào vô can trong vụ Tết Mậu Thân tại Huế.

Những người dân Huế này có ai “làm chính trị” đâu?

- Trước năm 1975, các thành phố lớn như Sàigòn, Huế không bao giờ thiếu vắng các cuộc biểu tình đòi hỏi phi chánh trị, làm hậu phương của miền Nam trở nên luôn luôn bất ổn, gây khó khăn không ít cho các Chánh phủ Việt Nam Cộng hòa.

Trong tham vọng và kế hoạch bành trướng Chủ Nghĩa Cộng Sản theo lệnh Cộng Sản Quốc tế, Đảng Cộng Sản Việt Nam, ngay sau khi chiếm được miền Bắc nước Việt, đã có kế hoạch xâm chiếm miền Nam. Sau năm 1954, Miền Nam, dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đạt được nhiều tiến bộ đã khiến cho các tên Cộng Sản nằm vùng hoặc bị vô hiệu hóa, hoặc bị lộ diện. Trước viễn tượng tan rã của đám Việt Cộng nằm vùng nên năm 1958, Lê Duẩn được cử vào miền Nam nghiên cứu tình hình, hầu mong cứu vãn tình thế. Bản phúc trình của Lê Duẩn gửi Bộ Chánh Trị ở Hà Nội: Đề cương cách mạng miền Nam khẳng định chỉ có một đường lối duy nhứt để cứu vãn tình thế ngõ hầu Cộng Sản hóa miền Nam là phát động một cuộc chiến tranh giải phóng, một cuộc chiến toàn diện trên mọi lãnh vực: kinh tế, chánh trị, quân sự. Lập tức các đảng viên nằm vùng được lệnh moi vũ khí chôn dấu, lập các mật khu trong rừng núi, bắt đầu gây loạn ở miền Nam, bằng cách khuấy động, khủng bố tàn bạo tại các vùng quê theo đúng sách lược của Cộng Sản Trung Quốc: Lấy rừng núi chế ngự nông thôn, lấy nông thôn bao vây thành thị. Gây xáo trộn trên toàn miền Nam về phương diện chánh trị là kế hoạch hàng đầu bên cạnh các áp lực về quân sự.

Tháng 5 năm 1959, Cộng Sản Bắc Việt cho mở lại đường mòn Hồ Chí Minh để bắt đầu chuyển vận võ khí, quân đội và cán bộ Cộng Sản vào thâm nhập miền Nam. Ngày 21 tháng 12 năm 1959, cái gọi là Mặt Trận Giải phóng Miền Nam chánh thức ra đời, đánh đấu một khúc quanh quan trọng của những điên loạn giải phóng giết người do Cộng sản Việt Nam gây ra cho dân tộc. Nằm đúng trong sách lược của Bắc Việt, hậu phương miền Nam bị chúng làm xáo trộn bằng đủ mọi cách, bằng các cuộc biểu tình, xuống đường đòi đưa chánh trị ra khỏi các sanh hoạt như tôn giáo, học đường…Hầu hết, nếu không nói là tất cả, các phong trào chống đối đều bị Cộng Sản xâm nhập. Mục tiêu chánh trị hàng đầu của Cộng Sản là làm cho miền Nam trở nên bất ổn định, càng bất ổn định chừng nào thì càng tốt cho công cuộc Cộng sản hóa chừng đó.

Trong cuộc chiến bảo vệ miền Nam, chống lại cuộc xâm lăng của Cộng Sản, người Việt Quốc gia đã thua cuộc, để Cộng Sản thống trị cả nước từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu. Có nhiều nguyên nhân đưa đến sự thất trận của miền Nam . Các nguyên nhân này đã được nói tới rất nhiều kể từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Một trong những nguyên nhân đưa đến sự xụp đổ của miền Nam, theo chúng tôi, là sự kém hiểu biết về hiểm họa Cộng Sản. không thấy được tầm quan trọng và nhiệm vụ của mỗi người trong việc bảo vệ quê hương. Điều đó đưa đến việc thờ ơ, không tích cực tham gia trong cuộc chiến đấu một mất một còn với Cộng Sản. Có nhiều người đã nhìn cuộc chiến với cặp mắt bàng quang, không mấy quan tâm, dấu mình trong cái vỏ không làm chánh trị như Đỗ Sinh trong truyện xưa. Họ coi cuộc chiến bảo vệ tổ quốc là cuộc chiến của riêng những người lính. Nay phần lớn đã thức tỉnh, nhưng thức tỉnh vào giờ thứ 25 của trận chiến. Than ôi quá muộn màng!!

Cuộc chiến Quốc-Cộng 1954-1975 là cuộc chiến mà người Quốc Gia đã thua từ đầu ngay khi Hiệp định Genève được ký ngày 20 tháng 7 năm 1954 còn chưa ráo mực. Ta thua vì nhiều lý do nhứt là ta không được người bạn đông minh Hoa Kỳ cho phép thắng. Nhiệm vụ bảo vệ quê hương đè nặng trên vai người lính. Họ chiiến đấu nhưng không được phép thắng, chỉ được phép tự vệ khi bị địch tấn công. Trong những ngày cuối của tháng 4 năm 1975, họ đã chiến đấu trong bi thảm, trong đáy cùng của tuyệt vọng, Ta phải cảm ơn họ, các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng hòa, họ đã đơn độc chiến đấu. Mặc dù bị phản bội từ nhiều phía, họ đã giữ vững Miền Nam được 21 năm.

Cuộc di cư vĩ đại bỏ nước ra đi sau ngày miền Nam bị rơi vào tay Cộng Sản là một hành vi chánh trị, một lập trường chánh trị. Đó là khẳng định không chấp nhận chủ nghĩa Cộng Sản.

Trên thực tế, cuộc chiến chống Cộng Sản chưa chấm dứt. Mặt trận chống Cộng đã thay đổi hình thái. Hiện nay cuộc chiến Quốc - Cộng được trải dài trên khắp thế giới.Trong suốt cuộc chiến 1954-1975, người Quốc gia chúng ta bị bắt buộc chỉ ở thế phòng thủ, không được phép tấn công, không được Hoa Kỳ bật đèn xanh cho phép đem chiến tranh ra tận hậu phương của quân xâm lăng, tức là miền Bắc của vĩ tuyến số 17. Bây giờ thế trận đã khác, hiện nay người Việt Quốc Gia đang đối đầu với bọn Cộng Sản - đối đầu trong thế công- tại khắp mọi nơi trên thế giới, tại bất kỳ nơi nào mà bọn hậu duệ của “Bác Hồ” héo lánh tới. Trong cuộc chiến mới mẻ này, chúng ta hoàn toàn không tùy thuộc vào đồng dollars, chúng ta không bị các chủ nhân ông sai khiến. Chúng ta đã và đang thắng bọn Cộng Sản tại bất cứ nơi nào họ đặt chân tới. Chúng ta đang giữ thế chủ động. Nơi nào có người Việt Quốc gia cư ngụ là nơi đó có ngọn lửa chống Cộng. Tại khắp mọi nơi trên thế giới tự do, ta không thấy một Cộng đồng thân cộng nào cả. Trên thế giới, bất cứ một lãnh tụ nào khi đến thăm viếng một nước tự do cũng được đồng hương của họ long trọng tiếp đón. Trái lại, lãnh đạo của Việt Nam Cộng Sản, khi đến bất kỳ một nước tự do nào khác, như Thủ tướng Cộng Sản Phan Văn Khải sang Hoa Kỳ, đều phải trốn chui trốn nhủi, không dám gặp đồng hương.

Cộng Sản đã áp đặt chế độ vô sản lên dân tộc ta bằng bạo lực, bằng phá hoại, bằng giết người một cách man rợ. Nói dối và giết người tàn bạo không gớm tay là sở trường của Cộng Sản. Nay sở trường khốn nạn đó trở nên vô dụng khi họ phải đối đầu với đám Người Việt di tản đang sống tại các nước tự do. Ta phải nhìn nhận rằng các cuộc tranh đấu, biểu dương lực lượng, các cuộc vận động dư luận của người Việt Hải ngoại, tuy chưa thành công làm tan vỡ đảng ăn cướp Cộng Sản Việt Nam, đã thành công trên nhiều phương diện, thí dụ :

- CS Bắc Việt đã không dám làm cuộc tắm máu ở Miền Nam như Cộng Sản Cao Miên đã làm ở xứ Chùa Tháp khi chiếm được nước này.

- Cộng Sản Việt Nam đã không dám tự do giết người như họ đã từng làm trong quá khứ.

- Cộng Sản Việt Nam đã không dám đàn áp môt cách công khai các thành phần dân chúng không đồng ý với họ.

- Cộng Sản Việt Nam , dưới áp lực của Hoa Kỳ và của thế giới tự do, đã phải thả hết tù cải tạo. Áp lực đó, sở dĩ có được là nhờ các vận động của người Việt Hải ngoại.

- Cũng vì nhờ sự vận động nói rõ sự thực về con người Hồ Chí Minh trước dư luận thế giới của người Việt Hải ngoại khiến tên tội đồ của lịch sử dân tộc này không được UNESCO của Liên Hiệp Quốc tôn vinh là danh nhân của thế giới.

- Qua các cuộc vận động, tố cáo của người Việt tị nạn, công luận thế giới đã biết rõ về bản chất lưu manh, tráo trở, gian dối, độc tài chà đạp nhân quyền của những người Cộng Sản Việt Nam. Thí dụ tấm hình Cha Nguyễn Văn Lý bị Công An bịt miệng trong một cái được gọi là phiên toà tại Huế đã được truyền đi khắp thế giới, tố cáo nền Công lý bịt miệng của Cộng Sản Việt Nam .

Tại quê hương Việt Nam, sau 32 năm độc quyền cai trị đất nước, Cộng Sản đã phải thay hình đổi dạng nhiều lần (métamorphose) để sống còn. Nhứt là kể từ khi các chế độ Cộng Sản trên khắp thế giới cáo chung vào đầu thập niên 90.

"Công lý Bịt miệng" của CSVN

Các người lãnh đạo mới của Cộng Sản Việt Nam tương đối có học thức hơn đám hậu duệ già nua của Hồ Chí Minh nên họ rất tinh ma trong việc độc quyền cai trị đất nước. Họ đã thay đổi hoàn toàn kế hoạch để đối phó và khai thác đám người Việt quốc gia đang sống tại các nước tự do trên khắp thế giới. Nghị quyết 36, hoạch định các kế sách đối với đám Việt kiều di tản, là một trong muôn vàn mưu chước của Cộng Sản nhằm khống chế các Cộng Đồng người Việt Hải ngoại.

Nào đổi mới, nào mở cửa, các chương trình du lịch, chấp nhận cho phép có quyền tư hữu, nới lỏng gọng kìm cai trị của chuyên chính vô sản…là những bước lùi chiến lược của Cộng Sản Việt Nam để được tồn tại. Xin cứ về du lịch, tiêu tiền ở Việt Nam nhưng tuyệt đối không được chống đối, đụng đến chế độ. Công An của họ có tai mắt ở khắp mọi nơi. Mọi mầm mống chống đối đều bị lực lượng Công An của họ dập tắt từ trong trứng nước. Mọi ý đồ thay đổi chế độ đều bị đàn áp một cách tàn bạo. Sau cùng tất cả đều trông cậy vào các áp lực đến từ bên ngoài, nhứt là các áp lực đến từ phía các người Việt Hải ngoại.

Người Việt Quốc gia vẫn chưa thành công trong mục tiêu tối hậu: đó là dứt điểm những người Cộng Sản Việt Nam , đem lại dân chủ, tự do cho đồng bào ở quê nhà. Vì đâu nên nỗi? Lý do nào đã giúp bọn phản dân hại nước vẫn nhởn nhơ trên quê hương ta? Sau đây là một vài lý do đã khiến người Việt Quốc gia chưa thắng, và có lẽ sẽ không bao giờ thắng bọn Cộng Sản nếu vẫn chưa thức tỉnh và cảnh giác.

Người Việt tị nạn Cộng Sản vẫn tiếp tục gửi tiền về Việt Nam , giúp đỡ đảng Cộng Sản. Ngay từ những ngày đầu tị nạn, chúng ta đã gửi tiền về giúp đỡ thân nhân còn kẹt tại quê nhà. Có ai lại không sót thương người thân đang gặp khó khăn đâu? CSVN có cả một hệ thống tổ chức qui mô để tóm thâu các số tiền gửi về quê nhà. Các trung tâm gửi tiền về Việt Nam mọc lên như nấm, tại tất cả các nước có người Việt tị nạn sanh sống.

Khoảng những năm 80, CS đã đứng trên bờ vực thẳm của tan vỡ vì kinh tế lụn bại do bất tài và quản lý dở. Nhưng họ đã thoát hiểm chính vì tiền của chúng ta gửi về. Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh và đồng đảng đã thoát hiểm. Chánh sách đổi mới được phát động từ đó.

Người Việt Hải ngoại hết bị gọi là lũ phản động, trốn khỏi nước để đi làm đĩ điếm. Chúng ta được CSVN gọi với một cái tên mỹ miều khúc ruột ngàn dặm. Hiện nay, mỗi năm các khúc ruột ngàn dăm gửi về quê độ 3 tỷ dollars USA . Ngoài ra, CSVN có trăm phương ngàn kế để dụ dỗ chúng ta mang tiền về Việt Nam : du lịch, đầu tư, các chương trình được gọi là chương trình từ thiện…..

- Bản tánh dễ quên của người Việt Quốc gia. Một số lớn người Việt tị nạn đã quên cái quá khứ tị nạn Cộng Sản của họ; quên những ngày vượt biên hãi hùng; quên những chết chóc của bạn bè, đồng đội, của người thân mà thủ phạm là các tên Cộng Sản. Điều tai hại là họ đã cố tình quên những đổ vỡ của quê nhà do CS gây ra. Họ đã và đang trở về Việt Nam hoặc để làm ăn, buôn bán với kẻ thù hoặc để hưởng thụ các thú vui vật chất để thỏa mãn thú tánh. Họ đã và đang làm hại cho chánh nghĩa của người Quốc gia.

Hai vị Cựu Chủ tịch của một Hội đoàn chống Cộng khá nổi tiếng ở Montréal (Hội đoàn của những người đã cầm súng bảo vệ quê hương), đã đầu hàng CSVN để được về Việt Nam ăn chơi, du hý. Chỉ mới cách đây vài năm, mọi người trong Cộng Đồng còn tin tưởng 2 vị Cựu CT này thuộc nhóm của những người thề không đội trời chung với Cộng Sản. Nay mọi sự đã đổi thay, lời thề năm nào đã thành chuyện của quá khứ, nên chôn vùi đi là hơn. Cơn nguy biến đã qua, người ta không mấy khi nhớ những gì đã hứa (Le péril passé, on ne se sousvient guerre de ce qu’on a promis) như người xưa đã nói. Một số tên tuổi trong các Cộng Đồng người Việt tị nạn như Phạm Duy, Nguyễn Cao Kỳ, Đỗ Mậu… đã về Việt Nam, đầu hàng những kẻ thù cũ. Họ đã muối mặt phủ nhận cái quá khứ chiến đấu chống Công để đánh đĩ tâm hồn, thốt lên những lời ca tụng những kẻ đang phá hoại quê hương.

- Thời gian là yếu tố bất lợi cho những người chống Cộng. Sau hơn 30 năm tại Hải ngoại, số người chống Cộng nhiệt tình nhứt càng ngày càng bớt đi vì tuổi tác, bệnh tật. Tinh thần Quốc gia chống Cộng sẽ không còn ở thế hệ thứ hai, thứ ba. Các thế hệ đó được sanh ra, lớn lên và trưởng thành tại các xứ tự do. Họ không có kinh nghiệm sống với Cộng Sản, không có một quá khứ chống Cộng như cha ông của họ. Trái lại tại quê nhà, các con cháu của những tai to mặt lớn Cộng Sản được huấn luyện để kế nghiệp cha ông, tiếp tục cầm quyền ở Việt Nam . Vì mệt mỏi và tuổi tác nên một số Hội đoàn bị khủng hoảng lãnh đạo, tìm không ra người gánh vác công việc chung. Cộng Sản đã lợi dụng khủng hoảng này để từ từ đưa người của chúng hay đưa người có cảm tình với chúng vào các vị trí lãnh đạo. Khủng hoảng lãnh đạo đã khiến một Hội đoàn có quá trình hoạt động và lập trường chống Cộng khá vững chắc tại Montréal đã lần lượt chịu đựng 2 Chủ tịch rất kém tài đức, không có phong thái của người lãnh đạo, chưa nói đến khả năng. Một ông Chủ tịch một Hội đoàn khác đã vì quyền lợi cỏn con của gia đình mà hi sinh danh dự cuả cả cộng đồng người Việt chúng ta tại đây, trước chính quyền và người dân điạ phương, nhưng ông vẫn được bầu ra vì không có người nào ra ứng cử, ngoại trừ ông.

- Kế hoạch xâm nhập các Cộng Đồng tị nạn tinh vi của Cộng Sản

Kế hoạch xâm nhập các CĐ của CS rất tinh vi. Một thí dụ theo nghị quyết 36 của chúng:Tích cực đầu tư cho các chương trình dậy tiếng Việt cho người Việt ở nước ngoài. Tổ chức cho các đoàn nghệ thuật, nhứt là các đoàn nghệ thuật dân tộc ra nước ngoài biểu diễn…Đầu tư cho các chương trình dành cho người Việt Nam ở nước ngoài như đài phát thanh, truyền hình và internet…Hỗ trợ việc ra báo viết, mở đài phát thanh, truyền hình ở nước ngoài. Hỗ trợ kinh phí vận chuyển và đơn giản hóa thủ tục đối với việc gửi sách báo, văn hóa phẩm ra ngoài .

Tác dụng của nghị quyết 36 đã được cảm thấy tại Montréal. Ngay tại Montréal, một số các hội đoàn (như Gia đình Giáo chức, Hội Phụ nữ…) công khai tuyên bố không làm chánh trị tức là không chống Cộng Sản.

Họ từ chối tham dự mọi sanh hoạt có tánh cách biểu dương lập trường quốc gia của người Việt tị nạn. Mới đây, một Hội đoàn quốc gia rất có uy tín tại Montréal đã bầu một vị Chủ tịch mới để thay thế Chủ tịch tiền nhiệm vừa đột ngột từ trần. Chủ tịch đắc cử qua cuộc bầu cử độc diễn này là người đã và đang buôn bán công khai với Cộng Sản Việt Nam từ hàng chục năm qua. Trong quá khứ, người ta chưa bao giờ thấy vị CT này có mặt trong các hoạt động chánh trị của Cộng Đồng. Các thắc mắc về các hoạt động buôn bán với Cộng Sản của vị Tân Chủ tịch đều bị cố tình lờ đi, bảo rằng: Hội ta không làm chánh trị. Các ténors của hội đã không ngớt lời ca tụng vị CT mới này, khẳng định tính cách phi chánh trị của Hội. Phải chăng phi chánh trị có nghĩa là nếu Cộng Sản thiệt lên làm CT cũng không sao ?

Cuốn sách giới thiệu các hoạt động của một Trung tâm văn hóa (?) tại Montréal đầy các từ ngữ Cộng Sản. Thí dụ Ban Giám Đốc được họ gọi là Ban Giám Hiệu, y hệt ngôn ngữ của Cộng Sản tại Việt Nam . Chủ tịch của Trung tâm đã đi đi về về Việt Nam như đi chợ, Chủ tịch tuyên bố về Việt Nam để tìm tài liệu cho cơ sở (?). Cờ quốc gia mầu vàng ba sọc đỏ ít được họ nghiêm chào trong các buổi sanh hoạt. Chúng ta sẽ không lấy làm ngạc nhiên, một ngày nào đó họ sẽ cho trưng bầy lá cờ máu của Cộng Sản để chào.

Ban Điều hành của một tờ báo có số phát hành khá cao tại Montréal đã không bao giờ cho đăng tải các bài viết có ý tưởng chống Cộng. Lý do: Báo của chúng tôi không làm chánh trị. Nhưng họ đã cố ý tổ chức Đại nhạc hội đúng vào ngày sanh nhựt của Hồ Chí Minh: 19 tháng 5. Vô tình hay cố ý đây? Phải chăng CS đã âm thầm theo đúng nghị quyết 36 để mua đứt tờ báo? Hay Ban Chủ trương của tờ báo đã bán linh hồn cho quỉ dữ CS?

Những hội đoàn và những cá nhân từng tuyên bố “không làm chính trị” hay thậm chí làm ăn, giúp đỡ, che chở, kinh tài cho CS hãy nhớ kỹ tấm gương của người dân vô tội Huế, gương cuả bà Nguyễn Thị Năm (Cát Hanh Long) trong cải cách ruộng đất (che chở cho “bác” và các đồng chí cuả “bác” để rồi cũng bị xử tử), hay gương cuả một ông duợc sĩ nọ ở Saigon trước 75, đã mua thuốc trị bệnh cho “bác” để rồi khi CS chiếm miền Nam cũng bị đánh tư sản như thường. Cái gương đau đớn nhất cuả các ông bà trí thức trong Mặt Trận giải phóng miền Nam hãy còn ngờ ngờ đó. Quí vị đừng mơ tưởng khi CS đã chiếm đoạt được sự lãnh đạo người Việt hải ngoại nhờ thái độ “khôn ngoan” (hay hèn nhát?) “không làm chính trị” của quí vị là họ sẽ tiếp tục để quí vị vẫn lãnh đạo các Hội đoàn của quí vị và tiếp tục hợp tác hay sử dụng quí vi nữa.

***

Trong cuộc đấu tranh chống CS, người Việt quốc gia tại Hải ngoại khó đạt được thắng lợi, nếu không nói là sẽ thất bại, vì chính chúng ta không muốn thắng lợi :

- chúng ta vẫn cung cấp, bằng cách này hay cách khác, tiền bạc cho kẻ thù.

- chúng ta tiếp tục đầu hàng kẻ thù, về VN để làm ăn, buôn bán, tìm thú vui

- chúng ta không dấn thân hoạt động để kẻ thù càng ngày càng thành công len lỏi trong hàng ngũ của chúng ta

- trong tập thể của chúng ta vẫn có người kêu gọi PHI CHÁNH TRỊ tức là từ chối tham dự mọi hoạt động có tính cách chống Cộng trong tập thể người Việt tha hương vì họa Cộng Sản tại quê nhà.

- thời gian là yếu tố bất lợi (le temps joue contre nous) cho chúng ta. Bệnh tật, tuổi tác, sức khỏe hao mòn với thời gian sẽ làm hàng ngũ của chúng ta càng ngày càng thưa vắng. Đã hơn 30 năm rồi mà kẻ thù vẫn nhởn nhơ trên quê hương.

Chúng ta đã đánh mất một nửa quê hương năm 1954, chúng ta đã mất cả quê hương năm 1975 vì chúng ta không có quyền lấy quyết định điều khiển cuộc kháng Cộng, vì chúng ta bị địch cấy độc tố không làm chánh trị. Nay chúng ta đang đứng trước viễn tượng có thể sẽ thua cuộc một lần nữa, nhưng thua cuộc lần này là do lỗi của chính chúng ta:

Chúng ta đã và đang trợ giúp kẻ thù bằng cách này hay cách khác.


Montreal 06/07/2007

Nguyễn Bách
Last edited by uncle_vinh on 22 Feb 08, Fri, 6:54 pm, edited 1 time in total.
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Phi Chính Trị ???

Post by uncle_vinh »

Chống Cộng Còn Hợp Thời Hay Không?

VI ANH
Việt Báo Thứ Tư
2/28/2007, 12:02:00 AM

Nhiều tháng trước Tết, mấy Ông Võ văn Kiệt, Nguyễn tấn Dũng, Nguyễn minh Triết nói nhiều, chiêu dụ nhiều về hòa giải với hòa hợp. Đối tượng chánh là người Việt ở hải ngoại, mà CS Hà nội gọi là "Việt Kiều". Nhiều chuyện lắm kể cả kiếm chuyện và vẽ chuyện chưa cần làm. Nào là chuyện quên quá khứ hướng về tương lai đất nước; chuyện ra quyết định dân sự hóa Nghĩa Trang Quân đội Biên Hòa; chuyện ra quyết định giải tư một số lớn quốc doanh; chuyện Thủ Tướng Nguyễn tấn Dũng đi diện kiến Giáo Hoàng Công Giáo La Mã; chuyện Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng CSVN sẽ xét không cho đảng, quân đội, và Mặt trận Tổ quốc làm kinh tế trong đại hội sắp tới; chuyện có thể mời một số "Việt kiều yêu nước" về làm quan sát viên tại Quốc hội; chuyện phát hành phát hành sách trắng về Tôn giáo và chánh sách tôn giáo tại VN; chuyện miễn chiếu khán cho Việt kiều về VN; chuyện cho Việt kiều mua nhà ở VN; và chuyện Việt kiều được ứng cử bầu cử không.

Đừng tưởng những tuyên truyền CS nói trên không có ảnh hưởng trong hàng ngũ người Việt hải ngoại. Tin ghi nhận được ở Au châu, có người định đến thảo luận dân chủ với nhân viên sứ quán Cộng Sản Việt Nam ở Hoà Lan vì cho rằng họ rất cởi mở. Có người coi việc chống Cộng, đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền VN đã hết thời rồi, "10 người chống Cộng 9 người thôi". Có người xù xì nói giễu mấy ông chống Cộng là mấy ông "nhà banh, mặc đồ trận, mấy ông chánh khách, chánh khứa" muốn phục hồi chế độ Việt Nam Cộng Hòa để làm tướng làm tá, làm bộ trưởng, nghị sĩ. Tại sao không về nước nhà cho rõ sự tình, đất nước bây giờ xây dựng lại "giàu mạnh" lắm. CS cũng là người Việt tại sao không đem tiền bạc và kinh nghiệm, kiến thức về xây dựng quê hương. CS bây giờ đâu còn là CS nữa, Mỹ đã vào rồi, tại sao không dựa vào Mỹ về "tham chánh", chia ghế; chống Cộng làm gì nữa, đấu tranh với CS rồi "tránh đâu." Số tối thiểu số này, có người lén về VN, đi bằng hai đầu gối định xin "chia ghế" nếu không được dân biểu thì làm quan sát viên.

Rất may ở hải ngoại số người bị CS tuyên truyền đường mật này là tối thiểu số và chỉ rù rì riêng với nhau nên công luận chú ý nhiều hơn về việc CS đàn áp các nhà đấu tranh như bao vây Tòa Tổng Giám Mục Huế, cô lập LM Nguyễn văn Lý tuyệt thực, CS hành hạ Nguyễn vũ Bình trong tù sức khỏe trong tình trạng nguy ngập.

Tối thiểu số người này bị CS tuyên truyền CS thường là lớp người loay hoay, chìm trong chi tiết, trong những hiện tượng. Nhiều chi tiết bánh vẽ do CS Hà nội tạo ra qua nhiều lời nói môi miếng huyên thiên và hành động dàn dựng lập lờ đánh lận con đen có tính vạn biến và biểu kiến. Nên những "Việt kiều này" không chú ý đến bản chất của công cuộc chống Cộng có tính bản thể và bất biến, ít nhứt khi chế độ CS còn hiện hữu ở nước nhà VN.

Chống Cộng là đấu tranh giữa hữu thần và vô thần, giữa chủ nghĩa quốc gia dân tộc và Cộng sản quốc tế vô tổ quốc. Chống Cộng là đấu tranh cho tự do tôn giáo, tự do dân chủ, và nhân quyền VN. Không phải một mình người Việt trong ngoài nước chống Cộng, mà Loài Người tiến bộ đang chống Cộng.

Quốc Hội Liên Au đã kêu án và đưa chủ nghĩa CS nhốt chung với Đức quốc xã. Mỹ đã xem CS Hà nội là chế độ vi phạm tự do tôn giáo. Quốc kỳ VN nền vàng ba sọc đỏ được chánh quyền của phân nửa dân số Mỹ thừa nhận là biểu tượng của người Việt đấu tranh cho tự do, dân chủ. Các tổ chức quốc tế bảo vệ nhân quyền, Hội An xá Quốc tế trụ sở ở Anh, Hội Phóng Viên Không Biên giới trụ sở ở Pháp, Hội Bảo vệ Nhà báo trụ sở ở Mỹ đều lên án CS Hà nội chà đạp quyền tự do căn bản của Con Người.

Chống Cộng là chống chế độ CS Hà nội độc tài, đảng trị toàn diện, chống chế độ cai trị đã tước đoạt quyền tự do căn bản của con người VN, chớ không chống đất nước và nhân dân VN là chủ thể thực sự của vận mạng nước non. Chống chế độ độc tài đảng trị CS Hà nội vì đó là chế độ vì đảng, do đảng, của đảng CS.

Không nhơn danh nào, không lý do gì để CS có thể "làm vua suốt đời, làm chúa muôn thuở" trên đầu người dân Việt như vậy được. CS là một chủ nghĩa đã tỏ ra thất bại ngay tại cáo nôi của CS ở Liên xô và Đông Âu. CS là một cái gì xấu xa, hư hại không thể thay đổi, chuyển hóa được, chỉ có thể vứt bỏ nó đi thôi.

CS Hà nội biết rõ nên không bao giờ nhượng một tí quyền hành nào cả vì chỉ cần một nhượng bộ chánh trị nhỏ là trọng tâm chánh trị của CS Hà nội xây dựng bằng võ lực, bạo lực, khủng bố, dối gạt sẽ sụp đổ.

Chế độ Việt Nam Cộng Hòa ở nửa phần đất nước Miền Nam ngày xưa qua độ lùi khá đủ của thời gian và qua các tài liệu đã được giải mật, chế độ đó chưa có tự do, dân chủ như các quốc gia tiền tiến. Nhưng ít nhứt chế độ đó người dân cũng có chỗ đứng, chỗ nói, chỗ kiện thưa. Người muốn ra giúp dân giúp nước có quyền ra ứng cử, không cần giới thiệu của đảng như cái kiểu "đảng cử dân bầu" của CS Hà nội hiện giờ. Chế độ VNCH chưa vì dân, do dân, của dân như Mỹ nhưng những lãnh đạo do dân bầu cũng đạo đức hơn Ô Hồ chí Minh, guồng máy công quyền không tham nhũng trầm trọng như của CS Hà nội. Chế độ VN Cộng Hoà không phải là chế độ của TT Ngô đình Diệm, hay Nguyễn văn Thiệu như CS nói chế độ Diệm Nhu hay Thiệu Kỳ Khiêm như chế độ CS Hà nội là của đảng CS.

Chống Cộng là người Việt hải ngoại làm dùm cho đồng bào trong nước vì bị CS kềm kẹp khó làm hay không làm được. Không một người Việt hải ngoại nào dù có tuổi hay trẻ tuổi đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền VN là để về VN làm nghị sĩ, dân biểu, thủ tướng, bộ trưởng, tướng tá gì cả. Đa số tự thấy có trách nhiệm phải làm một cái gì đó cho đồng bào trong nước. Người Việt hải ngoại đầy đủ tin tức biết rõ và tin rằng CS không thể thay đổi hay chuyển hóa được, phải vứt bỏ nó đi, để người dân trong nước làm ra một chánh quyền mới, nhân bản, tự do, dân chủ.

Đấu tranh chánh trị bản chất và hình thức vốn luôn đa dạng và đa thức. Nên người Việt trong ngoài nước chống Cộng có nhiều cách, nhiều tổ chức. Có đấu tranh ôn hòa, có quá khích. Có quốc tế vận là đấu tranh gián tiếp qua trung gian các siêu cường làm áp lực CS Hà nội. Có đấu tranh trực tiếp và trực diện như quí vị lãnh đạo tôn giáo, trí thức đang làm trong nước. Biểu tình chống đối CS, kiến nghị gởi chánh khách quốc tế hay quốc gia cũng là cách làm ở xứ sở tự do hải ngoại. Các cuộc cách mạng giải kềm CS ở Đông Au và các cộng hòa cựu sô viết của Liên xô tuy được gọi là cách mạng nhung, cam, tulip nghe rất hòa dịu nhưng trận đương đầu cuối cùng lúc nào cũng là một cuộc biểu tình triều dâng thác đổ của người dân.

Chống Cộng là sự nghiệp của đời người, công trình của thế kỷ, là sự sống còn của đất nước dân tộc, tuổi thọ tính bằng đơn vị, trăm hay ngàn năm. Tình hình thay đổi, chiến thuật có thể quyền biến. Nhưng cứu cánh chưa đạt thì không thể nói công cuộc đó hợp thời hay lỗi thời. 75 năm dai dẳng và âm thầm đấu tranh bằng nhiều cách, người dân Nga, các cộng hòa trong Liên bang sô viết trong sô viết, và các nước Đông Au mới lật được chế độ CS, có ai nói lỗi thời hay lạc hậu đâu.

VI ANH
Last edited by uncle_vinh on 01 Aug 08, Fri, 7:58 am, edited 2 times in total.
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Phi Chính Trị ???

Post by uncle_vinh »

Không Cho Phép Mình Quên

NGUYỄN KHÁNH VŨ .
Việt Báo Thứ Sáu, 7/18/2008, 12:02:00 AM
Bài số 2355-16208431-vb6180708

Tác giả đã tham gia Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu. Bài viết mới nhất của ông thể hiện quan điểm của thế hệ một rưỡi của người Mỹ gốc Việt, trả lời câu hỏi “Vì sao tôi chống Cộng”. Tựa đề được đặt lại theo nội dung bài viết. M0ong bạn Vũ tiếp tục viết.

***

Tôi tên Nguyễn Khánh Vũ, kỹ sư điện toán cho một công ty bên Arizona. Đã tham gia với bài "Nước Mỹ và tôi" vào năm đầu tiên, và mới nhất là bài "Nước Mỹ và vợ tôi".

Nhiều người cho rằng chiến tranh đã kết thúc hơn 30 năm rồi, vả lại Việt cộng cũng thay đổi rồi, sao lại chống? Với tôi, những bài học, những kinh nghiệm thương đau mà thế hệ Cha Anh đã có với Việt cộng nhắc tôi phải cảnh giác luôn luôn.

Bài học số 1: Việt cộng giết người Quốc gia ngay trong thời kỳ phôi thai kháng Pháp, đánh Nhật, vì Việt cộng muốn cướp quyền lãnh đạo đất nước, để có thể toàn quyền làm tay sai cho cộng sản quốc tế trước kia, và nay cho quan thầy Trung cộng.

Bài học số 2: Trong những kỳ cải cách ruộng đất, Việt cộng đã giết biết bao người dân vô tội, giết ngay cả những người mà có lẽ chẳng bao lâu trước đó đã hào phóng bỏ ra vàng, tiền của đóng góp trong các cuộc quyên góp cho Việt cộng.

Bài học số 3: Ký kết ngưng bắn với Việt cộng chưa ráo mực thì Hồ Chí Minh xua ngay quân giết hàng ngàn đồng bào miền Nam vô tội trong Tết Mậu Thân.

Bài học số 4: Việt cộng xé ngay bản hòa đàm Paris mà chúng chỉ vừa ký.

Bài học số 5: Trường học Cai Lậy, nơi bao trẻ thơ đang ê a bên trang sách, sao lại là mục tiêu pháo kích của Việt cộng? Sao Việt cộng lại nhẫn tâm bắn vào hàng ngàn đồng bào vô tội đang trốn chạy "giải phóng quân" trên đại lộ kinh hoàng?

Bài học số 6: "Nhà nước thông báo để nhân dân đừng tin vào các tin đồn thất thiệt. Nhà nước sẽ không đổi tiền". Và việc đổi tiền, thực chất là một cuộc ăn cướp tài sản của người dân miền Nam, được tiến hành chỉ một ngày sau đó. Đây là một nhóm thổ phỉ cai trị, chứ không phải là một nhà nước pháp trị. 500 đồng tiền Việt Nam cộng hòa đổi lấy 1 đồng tiền Hồ. Việt cộng có cái gì để mà đổi?

Bài học số 7:

- "Ngày mai em sẽ chở các con đến đây thăm anh", Mẹ tôi bịn rịn chia tay Ba tôi sau khi chở Ba tôi đến địa điểm tập trung "cải tạo".

- "Em về ráng lo cho Thầy Mẹ và các con. Đêm nay chắc chắn anh sẽ bị đem đi nơi khác. Và em cũng đừng mong anh sẽ về sau 10 ngày", Ba tôi căn dặn.

- "Nhưng… cách mạng thông báo tập trung 10 ngày mà", Mẹ tôi trả lời.

Ôi thương thay cho người dân hiền lành, thật thà đất nước tôi. Và chắc đâu đó ở Hà nội, đã có một nhóm người ngồi cười khoái trá.

Trên đây là một ít trong số những bài học "cơ bản" mà tôi luôn tự nhắc mình và “không bao giờ cho phép mình quên.”

Có nhiều người cho rằng Việt cộng đã thay đổi rồi. Với tôi, Việt cộng chỉ là một loài tắc kè dỏm và hạ cấp. Nó thay đổi màu để tồn tại, để tiếp tục lừa bịp, che đậy cái bản chất bất biến của chúng là tàn ác và đê hèn. Với những người cùng một dòng máu Việt thì chúng chẳng chừa một hành vi bẩn thỉu nào, nhưng với kẻ thù phương Bắc, kẻ thù mà ngàn năm trước cha ông ta đã chỉ mặt đặt tên, thì chúng lại quì gối. Khi đọc bản tin Giang Trạch Dân vào tắm ở Đà nẵng, rồi vào Saigon gặp mặt hoa kiều Chợ Lớn, sau đó mới bay ra Hà nội để gặp bọn đàn em ở Ba Đình, lòng tôi sôi sục căm hờn, tủi nhục. Với cái thằng Tàu phù này, Việt Nam xem chừng chỉ là cái ao làng của nó. Khi đọc bản tin thấy đám du khách Trung cộng phất cờ, đón đuốc thế vận trên đường phố Saigon trong khi những người dân Việt bị cô lập, bị đẩy ra xa, tôi biết rằng tôi vẫn còn sáng suốt. Tôi vẫn thấy rõ cái tồi tệ, xấu xí của Việt cộng dù đang được che đậy dưới một cái áo màu mè bên ngoài của một con tắc kè. Việt cộng đã thay đổi?

Tôi may mắn có một người cha sáng suốt với những phân tích sắc bén, thuyết phục. Ông luôn là người đầu tiên tôi tìm đến để tham khảo và hỏi ý kiến khi nghe hoặc đọc thấy những biến động nào trong xã hội. Là một cựu quân nhân trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa, ở tuổi ngoài 70, ông vẫn canh cánh trong lòng chuyện vận mạng đất nước. "Muốn chống cộng mình phải hoặc là có tiền hoặc là có quyền", Ba tôi nói. Và trong tình thế không có cả hai, ông vẫn chống cộng theo cách riêng. Ông hun đúc tinh thần yêu nước cho con cháu trong gia đình qua các câu chuyện kể, qua những nhận định tình hình, nhắc nhở con cháu tỉnh táo trước những mưu chước của Việt cộng. Ông nhắc con cháu dành chút thời gian thắp một nén nhang, đặt một ít hoa, nơi đài chiến sĩ Việt-Mỹ nhân ngày Chiến Sĩ Trận Vong. Ông cố gắng đến với các cuộc biểu tình nghiêm túc trong cộng đồng. "Mình đến dù không làm được gì nhưng mình phải đến để thể hiện chính kiến của mình, đồng thời động viên anh em", Ông thường nói như vậy. Ông đến với các buổi ra mắt sách có liên quan đến lịch sử, đến quân đội và luôn ủng hộ mua sách từ những đồng tiền ít ỏi Ông nhận được hàng tháng. Tôi được nghe rất nhiều lần từ những người bạn của Ông, từ sơ giao đến thân tình, "Mỗi lần gặp anh, tôi hiểu ra nhiều vấn đề quá".

Tôi luôn cố gắng theo Ba tôi tham gia các cuộc biểu tình nghiêm túc trong cộng đồng. Tôi phụ giúp giảng dạy Việt ngữ cho các em nhỏ với hy vọng góp một bàn tay phá vỡ cái nghị quyết 36 mà Việt cộng đã và đang cố gắng thực hiện tại hải ngoại qua sách báo, qua các chương trình ca nhạc của chúng. Tôi tranh thủ giờ ăn trưa trong công ty, để viết bài và tham gia tranh luận trên các diễn đàn với cố gắng "giành dân, lấn đất" với Việt cộng trên mạng điện toán. Tôi luôn mua băng gốc các chương trình ca nhạc, các tài liệu lịch sử để ủng hộ các trung tâm, các cơ sở có đường hướng chống Cộng rõ ràng. Tôi cố gắng giải thích cho các con tôi khi chúng thắc mắc về lá cờ máu chúng thấy trong sách báo.

Bạn bè tôi, có người cho tôi chống cộng cực đoan. Là người Việt nên tôi vẫn nhớ Ông Bà ngày xưa có dạy "một câu nhịn, chín câu lành". Tôi cũng cho mình là một người Công giáo kiên định và vâng phục. Chúa tôi có dạy rằng "Nếu có kẻ tát con má bên phải, con hãy đưa má bên trái cho kẻ đó tát". Kính thưa Ông Bà, Việt cộng ngày xưa đày Ba con nơi rừng sâu, chỉ thả về khi Ba con khập khễng trên đôi nạng gỗ với một bệnh án sống thêm được vài tháng là hết. Mấy chị em con bị xếp vào hàng cuối cùng trong xã hội vì "trúng" đủ mọi "tiêu chuẩn" của Việt cộng, dân Bắc di cư-đạo Công giáo-con Ngụy quân Ngụy quyền. Ngày xưa Việt cộng gọi chúng con là đĩ điếm bám chân đế quốc thì nay là "khúc ruột ngàn dặm", một khúc ruột mà hàng năm có thể gửi về trong nước gần 10 tỉ tiền đế quốc. Bao nhiêu đồng bào nghèo lê lết sống bên Cambodia hay còn kẹt lại ở Philippines, bao nhiêu công nhân làm tôi mọi khắp nơi, bao nhiêu cô gái bán thân khắp vùng Đông Nam Á, thì sao không là "khúc ruột"? Trước, Việt cộng giết dân miền Bắc trong "cải cách ruộng đất", chôn sống dân miền Trung trong Mậu Thân, đày đọa, thủ tiêu quân cán chính miền Nam sau ngày "giải phóng", nay Việt cộng lại tiếp tục cướp đất của bao người dân thấp cổ, bé miệng, tiếp tục tàn phá quê hương, phá bỏ đạo đức làm người. Người dân đã chẳng những "một nhịn", mà trăm ngàn "nhịn", mà "lành" vẫn không thấy. Ông Bà kính, làm sao có "lành" với quỷ? Lạy Chúa, Việt cộng đánh đồng bào con thê thảm trong "cải cách ruộng đất". Việt cộng chôn sống đồng bào con trong Tết Mậu Thân. Việt cộng đánh gia đình con và biết bao gia đình miền Nam tan nát sau "ngày giải phóng". Việt cộng đẩy đồng bào con ra biển Đông và hàng ngàn người đã bỏ mình, đã ô nhục, nhơ nhớp dưới tay hải tặc. Nay Việt cộng tiếp tục đánh phá các cộng đồng hải ngoại, nơi chúng con đang xây dựng lại cuộc sống mới cho thế hệ mai sau. Lạy Chúa, chẳng những cả hai má chúng con đã để cho Việt cộng tát, mà toàn thân, lục phủ ngũ tạng cũng tang thương. Thì nay xin Chúa cho con theo câu "có lúc con phải hiền như con trừu, có khi con phải khôn ngoan như con rắn". Tôi có cực đoan không khi tôi chống Cộng hay Việt cộng đã thay đổi chăng?

Tôi sẽ còn chống cộng ngay cả khi Việt cộng không còn trên quê hương tôi. Ngày quê hương thanh bình, tôi sẽ về lại vùng quê Mỹ Tho hiền hòa, mở một ngôi trường dạy học cho các em nhỏ. Và lồng trong những bài học Việt văn, toán học, tôi chắc chắn sẽ kể cho các em nghe những tội ác của Việt cộng, nhắc cho các em những kinh nghiệm thương đau của cha ông, với một hy vọng các em sẽ không bao giờ để cái chủ nghĩa quái thai này xuất hiện một lần nữa trên đất nước thân yêu dưới bất kỳ hình thức nào.

Tôi viết bài này trong niềm tưởng nhớ người Chú, người Cậu, những sĩ quan anh dũng của quân lực Việt Nam cộng hòa hy sinh trong cuộc chiến, những đứa em và bà con xa gần chết trên biển Đông, vì lý tưởng tự do.

Nguyễn Khánh Vũ
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Phi Chính Trị ???

Post by uncle_vinh »

Những Con Bò Sữa: Reviendrez-vous un jour, ô frères exilés?
(Một ngày nào dó, các anh sẽ trở về, ôi những đứa con
lưu lạc - Chuyền từ anh NĐXuân CN2)

Séb Ch. Leconte (Le Masque de fer)


Cách đây 32 năm, trên chiến hạm chỉ huy Blue Ridge, thuộc Hạm Đội thứ 7, các ký giả ngoại quốc đã thấy hàng ngàn những chiếc thuyền nhấp nhô như lá tre trôi trên biển. Nguời ta thấy những chiếc thuyền đủ loại, đủ cỡ của những nguời Việt Nam dầu tiên bỏ chạy Cộng Sản. Họ là ai, số phận họ sẽ ra sao sau này? Chẳng ai trong số những ký giả trên và ngay cả những người ngồi trên những chiếc thuyền dó có thể tiên đoán được điều gì?

Người ta nhận thấy có nhiều ký giả Mỹ và một số những nhân vật trong chính quyền Mỹ trên chiến hạm Blue Ridge. Chẳng hạn như Frank Snepp, tác giả các cuốn sách: Decent Interval và An Insider Account of Saigon, David Halberstam với The best and the Brightest và một số người khác như H.R. Haldeman, Stanley Karnow.

Karnow nhìn David Halberstam như chế nhạo nói:
-Này anh, công cuộc di tản này hẳn có sự đóng góp công sức của những người như anh?

Halberstam dáp:
-Anh nói không sai, nhưng điều đó chứng tỏ sức mạnh của người Mỹ chúng ta nằm ở chỗ nào? Ðâu có phải chỉ có sức mạnh của B52? Anh đồng ý chứ? Và hôm nay, chúng ta là những nhân chứng duy nhất và cuối cùng chứng kiến cảnh tháo chạy này. Và tôi nghĩ rằng đó là trách nhiệm của tôi và anh ở đây.

Karnow:
-Phần tôi, sẽ không bao giờ quên được câu chuyện ngày hôm nay. Tôi cảm thấy xấu hổ cho nước Mỹ.

Trên ca bin chỉ huy trưởng của chiến hạm, người ta nghe tiếng đối đáp của ông chỉ huy trưởng với Henry Kissinger. H. Kissinger hỏi viên chỉ huy trưởng:

-Ông có biết bây giờ là mấy giờ ở Hoa Thịnh Đốn không? Trong một giờ nữa mà ông Đại Sứ Martin không có mặt trên chiến hạm của ông thì kể như cuộc triệt thoái của người Mỹ là một thất bại?

-Thưa ông Kissinger, tôi được biết, ông Đại Sứ còn nán lại dể cứu vớt những người Việt Nam cuối cùng cần phải được cứu vớt.

Kissinger cáu kỉnh quát trong ống nghe:
-Anh nói với ông ta là lệnh của tôi, ông ta phải lập tức rời VN. Tôi không cần biết phải cứu ai. Sao cái bọn 'chó chết' dó không chết phứt đi cho rồi.

Stanley Karnow nghe được cuộc điện đàm đã đưa ra nhận xét: Ông Kissinger và Lê Đức Thọ nói cùng một thứ ngôn ngữ. Ông Thọ cũng gọi bọn người đang lố nhố trốn chạy dưới kia là những đống rác rưởi mà chúng tôi cần tống ra biển. Cả người Mỹ và kẻ thù của họ đều coi VN như một thứ rác rưởi cần phải tống khứ đi cho rồi.

Chẳng bao lâu sau, dại sứ Martin đã có mặt trên chiến hạm và ông đã nhận được một công diện của H. Kissinger đánh đi như sau: "Người Mỹ đến Việt Nam như thế nào thì khi rút đi cũng như vậy. Ðó là thành công của ông, của chúng ta. Congratulations! "

Ngay sau đó, Đại Sứ Martin nhận được từ dưới bong tầu chỉ huy, một cựu tướng VN muốn xin gặp. Ông Martin đã từ chối và nói với viên sĩ quan tùy tùng nhắn lại:

"Nói với ông ta, ở đây không phải Sài Gòn mà là nước Mỹ trên biển. Hiện nay, chúng tôi coi ông ấy như một người ‘ vô tổ quốc’. Phải cởi bỏ lon chậu và không được tuyên bố điều gì."

Người tùy tùng tuân lệnh và nói thêm rằng, ông cựu tướng đó dơ hai tay lên trời với cử chỉ tuyệt vọng, ngửa mặt lên trời và kêu lên rằng:

"Ta thề có trời đất, một ngày nào đó, ta sẽ trở về."

Lúc này, có lẽ chữ bỏ chạy là đúng nghĩa nhất. Chỉ biết bỏ chạy đã. Số phận họ ra sao không ai dám nghĩ tới, ngay cả đối với kẻ lạc quan nhất. Và đã có hon 100.000 ngàn người trong số 250.000 ngàn người như thế đã được vớt đi định cư từ các chiến hạm của hạm đội 7.

Cuộc ra đi thật bi tráng và tuyệt vọng dến tức tưởi!

Số phận họ có khác gì những con thuyền lênh đênh trên biển cả như những lá tre? Vâng những lá tre trên một đại dương mà lẽ sống chết đang chờ đợi họ. Bằng mọi giá, họ đã ra đi mà nếu nay ngồi nghĩ lại, nhiều người không mường tượng nổi, họ dã có thể làm một điều như vậy. Những cái "sô" vớt người trên biển trong tuần lễ cuối cùng của tháng Tư và đầu tháng Năm của người Mỹ cũng nói lên được điều này: Người Mỹ có thể làm được tất cả mọi việc một cách quy mô, hoành tráng, ngay cả việc trốn chạy.

Ðó là những thuyền nhân Việt Nam đầu tiên chạy trốn làn gió chướng từ trong dất liền đã thổi giạt họ ra biển...

Hãy cứ tưởng tượng, trong số 250 ngàn người đó, ít ra cũng đến phân nửa ở tuổi vị thành niên, Cái hình ảnh người lếch thếch, lang thang với từng đoàn người người nối đuôi nhau chạy trốn. Và nếu cần nói một điều gì về lúc đó, về tâm trạng những người bỏ chạy thì có thể tóm tắt trong một câu: Tất cả đều hoang mang và không có một chút hy vọng gì về tương lai cả.

Và cứ như thế, các con số thuyền nhân trốn khỏi Việt Nam càng gia tăng theo nhịp độ của những chính sách của Hà nội như "đi vùng kinh tế mới", "học tập cải tạo", "đánh tư sản, mại bản", và cuối cùng "đi bán chính thức" nhằm vào giới Hoa Kiều. Cứ mỗi một đợt chính sách lại thêm số người trốn ra đi khỏi nước. Tổng cộng dã có gần hai triệu người trốn đi như thế. Đấy là còn chưa kể những người để lại xác trên biển cả. Con số này chẳng ai biết là bao nhiêu? Và cũng chẳng ai có thì giờ tìm hiểu làm gì. Người chết thì đã chết. Phải vậy không? Tiếc nuối rồi cũng nguôi ngoai để lo sinh kế, miếng ăn trước
đã.

Tất cả những chính sách vừa kể trên của nhà cầm quyền CS là nhằm đánh vào những thành phần phản động, ngụy quân, ngụy quyền, tay sai Mỹ Ngụy. Và đối với nhà cầm quyền lúc ấy, chỉ có hai cách để làm ‘vệ sinh miền Nam ’ là: Tống xuất bọn rác rưởi ra biển hoặc cho đi tù cải tạo.

Nhưng chính thức thì có thể quả quyết rằng, nhà nước không cưỡng bức một ai phải bỏ xứ ra đi, và cũng không giữ một ai muốn ra nước ngoài sinh sống. Và cuối cùng để giữ thể diện hoặcđể trao đổi trong thương thuyết, nhà nước Cộng Sản đã đồng ý với Liên Hiệp Quốc theo một chương trình "ra đi trong vòng trật tự" (Orderly Departure Program). Thảm cảnh thuyền nhân trên biển vì thế đã giảm mức độ.

Tất cả câu chuyện, những thảm cảnh trên biển cả nay đảo ngược trở thành cái mà Michel Tauriac trong Hồ sơ đen của Cộng sản (Le dossier noir du Communisme ) tóm tắt đầy đủ ý nghia tóm gọn trong một câu "Những con bò sữa thuyền nhân".

Gió đã đổi chiều, gió chướng đã thổi họ ra biển, nay ngọn gió nào đã đưa họ về? Hình ảnh thật biểu tượng và gợi hình. Thật vậy, tất cả những con bò sữa thuyền nhân đã ra đi với hai bàn tay trắng để lại tiền bạc, nhà cửa ruộng vườn. Họ đã vắt được bao nhiêu sữa ở những con bò đó? Vắt lúc ra đi và nhất là vắt lúc trở về. Việc ra đi theo diện người Hoa, đi bán chính thức hay việc quản lý nhà cửa đất đai, tài sản nằm trong tay Bộ nội vụ. Công việc bộ này là đảm trách và tổ chức nhằm "nhổ sạch lông" những bọn người lưu vong này. Kẻ rỗi hơi ngồi tính nhẩm chuyện nhổ sạch lông này đem lại cho nhà nước ít nhất là 25 tấn vàng. Nhưng 25 tấn vàng vẫn là chuyện nhỏ. Vẫn là chuyện vắt đi. Vắt lại mới là quan trọng.

Và để gợi những thuyền nhân thì có nhiều tên gọi tùy theo thời kỳ: lúc đầu là bọn bán nước, bọn tay sai. Cho mãi đến năm 1990, cũng còn có người gọi Việt kiều là những tên Việt gian. Nói chung họ coi đó là thành phần rác rưởi của chế độ cu, muốn thải loại, muốn tống đi cho rảnh mặt. Và gọi một cách vô tội vạ nhất là người nước ngoài. Nghia là có sự phân biệt đối xử giữa người trong nước và ngoài nước. Sau này chữ được dùng hon cả là Việt Kiều.

Xin nhắc lại vụ án tàu Việt Nam Thương tín để chúng ta hiểu rõ Cộng Sản hon. Trên báo Quân Ðội Nhân Dân, số ra ngày 3/7/77, trang ba viết như sau:

"Luật lệ trừng phạt những kẻ phản cách mạng đã được ban hành ngày 19/11/76." Khoản 9 của điều luật đã ấn định rõ như sau: "Tội chạy trốn theo hàng ngu địch hay trốn ra ngoại quốc vì những mục tiêu phản cách mạng sẽ bị phạt từ 3 đến 12 năm tù. Trong những trường hợp đặc biệt và nghiêm trọng tổ chức tội phạm sẽ bị kết án chung thân hay Tử hình." Số phận những người đi tàu Thương tín và di tản, nhất là giới trẻ đã bị phát tán đi Lào Cay, Thái Nguyên, Yên Bái...

Về phía những người Việt Hải ngoại, xin được nhắc mọi người đến những hoài niệm của những năm đầu ở Hải ngoại để cho thấy tâm trạng chúng ta lúc bấy giờ như thế nào? Những nhà văn đã thay chúng ta nói lên những tâm trạng đó. Có thể là bài viết của Nguyễn Ðình Toàn: Sài Gòn, niềm nhớ không không tên, kỷ niệm 30/04. Và nỗi ray rứt trong tập tho mỏng của Cao Tần nói lên đủ.

Vài câu tho góp nhặt đó đây để cùng nhớ lại:

Thù quê hương như tên hề ốm nặng
Hôn tang thương sau mặt nạ tươi cười
Ôi trong ví mỗi người dân mất nước
Còn một oan hồn mặt mui ngu ngo
Thù hận bọn làm nước ông nghèo xí
Hận gấp nghìn lần khi chúng đánh ông vang
Nếu mai mốt bỗng đổi đời phen nữa
Ông anh hùng ông cứu được quê hương
Ông sẽ mở ra nghìn lò cải tạo
Lùa cả nước vào học tập yêu thương


Và trong số Văn Học Nghệ Thuật, số 1, có bài phỏng vấn người nhạc si tài danh với câu trả lời: “Buồn lắm. Nhớ Việt Nam quá. Thương quá Việt Nam .” nói theo kiểu Phạm Thế Mỹ. Và cứ thế. Ai là người tuôn ra những câu tho ở thị trấn giữa đàng những ngày tháng tư đen:

Xin cúi đầu mình xuống
Khóc quê hương, trói trong tay bạo cường.
Xin cúi đầu một phút
Nhớ anh em, sống trong ngục, trong tù
Nuôi cho sâu hận thù
Mong và chờ, về Việt Nam ước mo
Một ngày bảy lăm, đứng ở cuối đường
Loài quỷ dữ xua con ra đại dương
Đời hai lần ta bỏ que, bỏ nước
Phải nuôi ngày sau về ôm tổ quốc …
Ta phải về, ta chiếm lại quê huong
Ta phải về xây lại đời ta
Ta chống Cộng, ta không trốn Cộng
Ta và cả trăm ngàn đồng hương
Mai nay rồi, ta về VN mến yêu.


Thời ấy nay còn đâu.

Rồi cứ như thế sau thời kỳ mở cửa mà số lượng người Việt về nước cũng như kiều hối đã bắt buộc mọi người phải thay đổi lại thế nhìn, thế bắn. Không ai có thể từ chối được những món quà, không phải 10 đô la trong ngày lễ Noel mà là 3 tỉ đô la. 3 tỉ đô la tình nghia hàn gắn những vết sứt sẹo, những lời nói mà bình thường chỉ được coi như kẻ thù.

Gió đã đổi chiều, nên ngôn ngữ cũng đã đổi theo. Những chiếc thảm đỏ đã trải dài từ phi trường Tân Son Nhứt đến Nội Bài, chạy thẳng vào Bắc bộ Phủ. Thật là trớ trêu đến nực cười. Lúc ra đi trốn chui, trổn nhủi, lúc trở về thảm đỏ dưới chân.

Những thành phần rác rưởi ta vừa nói ở trên, những con bò sữa đã vắt cạn chẳng bao lâu sau trở thành rác quý mà người ta có thể chế biến thành những sản phẩm, những vật liệu để xây dựng một nước Việt Nam hùng mạnh. Ðã chẳng ai ngờ điều đó đã xảy ra. Rác rưởi cứ thể đổi hình, đổi dạng mà tính ra tiền bằng những sản phẩm mới.

Những anh thuyền chài có thể ra đi vỏn vẹn chiếc quần đùi nay chễm trệ ngồi Mercedes. Những mệnh phụ nói tiếng Mỹ oe oé. Kể gì đến những hiện tượng nhỏ nhoi đó. Ðã có rất nhiều thay đổi tràn đầy hy vọng như thế đối với giới người Việt di tản, nhất là noi người trẻ. Họ không còn là cô nữ sinh cười e lệ, hỏi không dám mở lời. Ngày nay họ là những chuyên viên hàng đầu của xã hội Mỹ. Có những người trong bọn họ đã làm ra số vốn bạc tỷ. Có người trong bọn họ, cùng với bạn đầu tư nửa tỷ đô la tại noi mà trước đây được coi là thánh địa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Củ Chi với những địa đạo, noi tự hào về cuộc chiến thần thánh trong tương lai trở thành biểu tượng "thung lũng của ngành tin học".

Và cái kim chỉ đường cho người Việt tương lai là hãy nhìn vào giới trẻ đang lên. Họ chiếm đa phần. Tương lai thuộc về họ, đời sống thuộc về họ, cộng đồng VN là họ. Không phải do một thiểu số những người lớn tuổi. Những người bỏ nước ra đi đã chỉ nhớ cái phần đầu câu chuyện mà quên phần cuối. Những câu truyện do người lớn kể ngày càng nhạt phèo như nước ốc. Phải chăng thời của họ đã hết? Họ bám víu vào những bèo bọt mà chính họ cũng chẳng còn thiết tha gì. Nhưng nếu không bám víu vào đó thì họ còn gì là họ?

Phải chăng cuộc ra đi bất hạnh nay đã trở thành đại hạnh cho chính mình, cho con cháu mình, cho cái noi mình đi tới và cả cái noi mà từ đó mình đã ra đi?

Hãy nhìn vào những con số để nhận ra câu chuyện thần thoại về người Việt di tản. Năm 1987, mới chỉ có 8 ngàn người về thăm quê hương, đến năm 1993 thì con số tăng lên 160 ngàn người, đến năm 2002 là 380 ngàn người. Con số tự nó nói lên điều gì rồi và người ta bắt đầu vỡ lẽ ra. Bên cạnh đó, kiều hối đem lại một sốn tiền tươi là 2 tỷ 6 đôla trong năm 2003. Hãy làm một so sánh cho rõ. Năm 2003, Việt Năm xuất khẩu được 20 tỉ đôla, trừ vốn liếng cho sản xuất, lời ròng của 20 tỷ vị tất đã được 5 tỷ?

Có một điều, nhiều người vô tình quên là năm nay có 2 triệu lượt khách đến Việt Nam. Cứ giả dụ, mỗi người khách tiêu 2000 đô la đầu người. Số tiền thu được sẽ là bao nhiêu? Trong số 300.000 người Việt về thăm quê hương, cứ cho là vừa tiêu xài, vừa cho bà con họ hàng, ở từ hai tuần đến một tháng, mỗi người đổ đồng chi tiêu 4000 đô la cho một chuyến về thăm quê hương, cán cân ngân sách cũng như nền kinh tế Việt Nam đã được kích cầu lên không nhỏ.

Tiềm năng thật lớn. Tương lai cũng đầy hứa hẹn. Ðó là nền kinh tế sống nhờ trên những kỹ nghệ không khói. 10 năm nữa, dự đoán số khách du lịch là 10 triệu người mỗi năm như Thái Lan hiện nay, với các đường bay thẳng Sàigòn-Mỹ, Sàigòn-Âu Châu. Chuyện đã xảy ra và chắc sẽ xảy ra. Lúc đó, tiền đổ vào qua du lịch không phải là nhỏ nên hiện nay trên hầu hết 60 tỉnh thành của VN đều có khu du lịch đủ kiểu.

Điều đáng nói hon nữa là nay có một số Việt Kiều về nước kinh doanh đầu tư với gần 100 dự án được chấp nhận với số vốn đầu tư con số xấp xỉ một tỉ đô la. Những Việt kiều như Nguyễn Chánh Khê với phát minh chế tạo thành công Carbon Nanotube (áp dụng vào việc sản xuất mực in và các sản phẩm công nghệ cao khác) không phải là hiếm. Dự án khu khách sạn Sofitel Vinpearl Resort–Spa, 5 sao, tại đảo Hòn Tre nay đã thành sự thực. Nha Trang đã khánh thành khu Vinpearl Resort vào cuối năm với số tiền đầu tư là 500 tỉ đồng. Phần lớn các số tiền đầu tư này tập trung vào linh vực công nghiệp, tin học, lắp ráp, du lịch.

Cũng vì thế, nhà nước đã chẳng tiếc lời gọi Việt Kiều là những người con của đất nước. Những lời lẽ trân trọng mật ngọt đã hẳn là không thiếu.

Gió chướng đã không còn nữa. Gió đã đổi chiều, ngôn ngữ đổi chiều, giọng lưỡi đổi giọng. Không còn có chữ nghĩa làm đau lòng nhau nữa. Trên tất cả các sách báo, trên các trang nhà, không còn có thể tìm thấy bất cứ thứ chữ nào nói xa nói gần đến chế độ miền Nam trước đây nữa. (1) Những chữ như bọn ngụy quân, ngụy quyền và bọn tay sai đã không tìm thấy trong tự điển của bộ chính trị nữa. Ngược lại không thiếu những chữ mật ngọt như "Tổ quốc Việt Nam , quê hương thân thiết luôn giang rộng vòng tay chào đón những người con xa xứ." "Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt nam định cư ở nước ngoài giữ gìn quan hệ gắn bó với quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước".

Luật quốc tịch điều hai thì viết rõ ràng thế này: "Người Việt Nam ở nước ngoài là công dân Việt Nam . Người Việt nam ở nước ngoài là bộ phần không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam ."

Nhà nước lại còn trích dẫn câu nói của ông Hồ mà không ai tự hỏi xem ông nói lúc nào và bao giờ: "Tổ quốc và chính phủ cũng luôn luôn nhớ thương đồng bào, như bố mẹ thương nhớ những người con đi vắng." (Hồ Chí Minh nói với kiều bào ở Thái lan về nước năm 1960.)

Từ Sài Gòn ra biển đông (30/4/1975)

Hình như người ta đã quên cái cảnh bồng bế xô đẩy nhau lên máy bay và bằng bất cứ giá nào phải đi bằng được. 32 năm sau, câu chuyện kể về thuyền nhân chỉ còn là di vãng mà cả bên này bên kia, nhiều người đã quên hoặc cố tình quên.

Thật ra không hẳn là như vậy. Nhà nước chính quyền hoan hỉ nhận những đồng tiền đô la từ mọi noi gửi về cũng như người Việt mang tiền về nước. Mang tiền về thì được chứ đừng mang chữ về. Chữ hiểu theo nghia rất rộng là sách báo, tư tưởng, âm nhạc, nghệ thuật. Từ khi có nhà nước Cộng Sản đến nay, chữ vẫn là độc quyền tuyệt đối nằm trong tay đảng. Nó nằm trong một hệ thống khép kín: Chủ nghia hay ý thức hệ bạo lực khủng bố và một chính quyền toàn trị. (Ideology, terror and totalitarian government).

Chẳng lạ gì, trước khi về VN, người ta thường khuyên có một diều duy nhất: anh muốn làm gì thì làm: chẳng hạn cờ bạc, choi bời đủ kiểu, tắm đủ kiểu, phòng trà đủ kiểu, âm nhạc đủ kiểu, cà phê đủ kiểu, gái đủ kiểu, sex đủ kiểu, ngủ trưa đủ kiểu, ngủ tối đủ kiểu, ăn đủ kiểu, vừa ăn vừa choi đủ kiểu, đi điếm đủ kiểu, hối lộ đủ kiểu, lưu manh lường gạt đủ kiểu, gian trá đủ kiểu, buôn bán mánh mung đủ kiểu, làm giầu đủ kiểu, đầu co đủ kiểu, công an đủ kiểu, phường khóm đủ kiểu, công ty đủ kiểu, co quan đủ kiểu, chính quyền địa phương đủ kiểu, chính quyền trung ương đủ kiểu, luật pháp đủ kiểu, thằng ăn cắp xử thằng ăn cướp đủ kiểu và cuối cùng xã hội lọan đủ kiểu.

Ta có quyền đủ kiểu hết, miễn là đừng đụng đến chính trị. Vì trên hết, vẫn có một nhà nước toàn trị ở trên tất cả những đủ kiểu đó. Trước khi lên máy bay về nước, còn dặn với theo: nhớ nhé đừng đụng đến chính trị.

Mặc dầu vậy, ngày nay, có nhiều bà con Việt Kiều tính về ở hẳn VN. Có người trong đám này về Việt Nam dưỡng già với xe hoi SUV. Trong vòng 10 năm nữa, khi xa lộ đông tây hoàn thành, khi 6 tuyến xe điện ngầm xây dựng xong, đường hầm Hải Vân nối liền Nam Bắc hoàn tất thành phố Sàigòn sẽ thay mặt đổi tên chẳng còn ai nhận ra nó nữa.

Nay ở Sàigòn, đã có những khu nhà "Làng Việt Kiều". Người ta dự trù có 4 khu như thế, với những biệt thự sang trọng, đủ tiện nghi như ở Mỹ , Canada . Người ta thấy những Việt Kiều lái những chiếc xe SUV, hay ngồi nhâm nhi ly rượu cocktail bên bờ sông Sàigòn. Những căn nhà có những bãi cỏ xanh, mái nhà mầu cam kiểu California , có những hàng dừa cọ, những hồ boi với những hàng chữ tiếng Anh: "Welcome!" Ðây là, chẳng phải ai khác, mà là những người di tản, những rác rưởi 32 năm về trước chạy trốn Cộng Sản, hoặc đã bị đi tù, đi cải tạo.

Gió chướng đẩy họ ra đi, nay gió nào đẩy họ về?

Chẳng hạn, anh chàng Võ Quy, kèm theo cái tên Larry. Và vô số những tên như thế Catherine, Julie, Elizabeth, Brigitte, Linda…. Nay Võ Quy đã gần 70 tuổi, trước đây là một si quan không quân, quân đội VNCH. Anh ta ta đã rời bỏ vùng Southern Califronia cách đây 6 năm cùng với vợ, Linda, còn có tên cúng com là Ngọc để về ở đây. Anh ta khoe căn nhà với vẻ hãnh diện không cần dấu diếm với đồ dùng toàn bằng Inox (thép không rỉ), phòng tắm lớn có vòi tắm hoi, thiết trí theo kiểu Jacuzzi của Ý. Sàn nhà mầu hồng bóng lộn.
Anh còn chỉ cho thấy và nói thêm: "Không phải cẩm thạch đâu nhé, đá hoa cương thứ thiệt đấy. Thiệt là quá rẻ, còn rẻ hon ở Hoa Kỳ rất nhiều." (2)

Thiệt là Việt Kiều.

Một anh khác tên Hoàng Tiến, chả bù cho lúc ra đi lếch thếch, lang thang, nay anh trở thành chủ nhà thầu đang có những kế hoạch xây cất nhà cho Việt Kiều với những dự án "thành phố xanh" (Green city).

Cái điều oái ăm đến quái gở là khi ở Mỹ, người ta bằng mọi cách nhắc nhớ đến Sài goon, tìm cách đặt tên Little Saigon, Phở Bắc, bánh mì Tân Ðịnh, bánh cuốn Ðakao, Restaurant Hoài Hương, Phở Hà Nội, Brodard restaurant, phở Nguyễn Huệ để nhớ về miền Nam thân yêu. Nay ở Việt Nam thì người ta lại muốn đặt tên cho những khu thương xá là “tiểu Cali ” , “tiểu Fairfax ” để nhớ đến. Và cứ như thế, sẽ có một số người Việt gốc Mỹ sống riêng biệt trong những tiểu quốc, Mỹ Hóa của họ bên cạnh những người Việt bản xứ.

Khi ở Mỹ thì họ nhớ Việt Nam , khi ở Việt Nam họ lại tiếc lối sống Mỹ. Họ trở thành người ngoại quốc trước mắt những người đồng bào của họ. Họ tưởng về quê thật, nhưng lại mang tâm trạng một thứ chủ nhân, cách biệt với dân bản xứ. Và điều rõ rệt là Hoàng Tiến đã bực tức về một căn nhà hàng xóm đã vứt những bao rác ra đường ngay cổng nhà anh ta, đã mở nhạc Karaoké tùy tiện ầm i cả lên. Anh bực tức nói: Như thế không phải lối sống Mỹ, không biết tôn trọng luật pháp. Như thế là thiếu văn minh.

Khi ở Mỹ thì anh muốn bảo tồn văn hoá Việt, không muốn trở thành một mẩu trong Melting pot hay Sálát Mỹ. Anh bắt con đi học tiếng Việt. Về Việt Nam , mở mồm là anh chỉ xổ tiếng Mỹ. Cái mâu thuẫn như thế rất là Việt Nam . Trong tương lai, Hoàng Tiến sẽ còn phải bực tức nhiều về những điều trái tai gai mắt: chẳng hạn một anh cán bộ phường cứ xồng xộc vào nhà chẳng điện thoại trước.

Riêng Nguyễn Anh, năm nay mới 35 tuổi về Việt Nam làm việc cho một công ty nước ngoài. Ra đi từ nhỏ, kể như không biết gì về Việt Nam , anh cũng không có ý ở hẳn VN.. Nhưng anh cũng có một vài nỗi khổ vặt khác. Nguyễn Anh sửng sờ khi làm một việc gì giúp người khác không nhận được một tiếng thanh kiu, thanh kiếc gì hết. Anh cũng khó chịu khi mọi người chen lấn không xếp hang khi trả tiền. Nhất là các cô thiếu nữ trông khả ái, dịu hiền, nhưng cũng huých tay chân như ai. Gần như mạnh ai nấy làm, mạnh ai nấy sống chen lấn chụp giựt.

Nguyễn Anh có hoi buồn về con người Việt Nam vốn có tâm hồn, vốn thương người mà một tai nạn xe cộ xảy ra đến chết người mà mọi người dửng dưng. Quả thực, tuy là người Việt Nam , nhưng anh lại không hiểu gì về người mình.

Lại nói đến giải trí, Nguyễn Anh không hiểu được là người Việt Nam "Xem thể thao" chứ không choi thể thao. Mấy triệu người thức đêm, bỏ công an việc làm, bỏ học để dán mắt vào đài truyền hình theo dõi một trận đá banh. Thật là vô lý vì hại sức khỏe. Chỉ có 22 cầu thủ thực sự choi thể thao, còn cả nước chỉ ngồi xem thể thao, chưa kể còn cá độ. Hình như cái gì ở Việt Nam cũng có thể trở thành cờ bạc.

Lại một điều nữa, Nguyễn Anh không hiểu được.

Nguyễn Anh thì chỉ thích đi đánh golf. Nhưng muốn choi ngon, Nguyễn Anh phải lấy vé máy bay ra Phan Thiết choi, vì ở đó có sân choi nổi tiếng là đẹp. Ít ra thì điều đó cũng làm Nguyễn Anh vui lòng. Nhưng có người thấy như thế thì lấy làm kỳ cục. Họ chép miệng, tội tình gì mà phải cất công như thể để choi Golf. Choi đâu chả được. Phí tiền nữa. Ngưyễn Anh không đáp lại, vì anh có cái lý của anh. Ðúng là anh thấy người Việt mê đá banh một cách kỳ cục. Nhưng ngược lại, họ cũng thấy anh không giống ai.

Còn về thanh niên, thiếu nữ thì chửi thề không biết ngượng mồm, nhất là thanh niên, thiếu nữ gốc Bắc. Mở mồm ra là địt. Sáng ra, chỉ hỏi giá cả món hàng đã bị một người con gái xinh đẹp phạng cho một câu.

Nói gì thì nói, nghi gì thì nghi. Thời gian sẽ xoá nhoà tất cả vết tích cu: thời gian cứ trôi qua, nhiệt tình chống Cộng giảm xuống và tình hoài hương lại trỗi dậy. Những vị lãnh đạo trong nước thì nghi rằng:

Nhân dân muốn quên hết mọi thứ. Những người này hiện ở đây vì đất này là tổ quốc của họ. Chúng ta không có quyền trách mắng họ. Chúng ta tiếp đón họ. Chúng ta không muốn để Việt kiều gây chiến tranh lần nữa.

Gió chướng đổi chiều đến đâu có thể còn chưa biết rõ được. Tôi tự hỏi bao giờ làn gió chướng đó cùng với con lốc đầu tư tư bản đánh bật chủ nghĩa Cộng Sản ra biển?

Chỉ có một điều tôi biết chắc rằng, ngay cả những người theo làn gió chướng đổi chiều, đã về VN. Họ cũng cảm thấy họ chẳng sung sướng gì, đôi khi tỏ ra buồn phiền, nghi kỵ, thất vọng không muốn nói ra. Ðó là trường hợp hợp ông Nguyễn Cao Kỳ. Ðó cũng là trường hợp một người trong số 17 người vừa được vinh danh "Vinh Danh Việt Nam – 2006"?

Tôi có cảm tưởng họ đang chơi một canh bạc giả, biết như thế mà vẫn chơi, chơi cho biết.

Gió chướng đã đổi chiều? Nhưng đổi thế nào thì còn chưa nói hay được. Bảng chỉ đường đất nước vẫn còn có thể chỉ trật đường. Xin dè dặt. Thận trọng và khôn ngoan để đừng thêm một lần nữa mắc mưu Cộng Sản lừa phỉnh.
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Phi Chính Trị ???

Post by uncle_vinh »

Cuồng Ngôn

"Bà con hãy hướng về quê hương, bằng mọi đường, mọi nẻo... Quê hương là vĩnh hằng, trong khi quá khứ đã là lịch sử, cần gác lại ...Chúng ta hãy cùng gác lại quá khứ, nhìn vào mục tiêu chung này để chung sức xây dựng đất nước . Làm được cái gì, dù nhỏ nhoi thì làm, một tiếng nói ủng hộ cũng là đóng góp...

Đừng mặc cảm mãi với quá khứ, nhất là khi đất nước còn không ít khó khăn. Khi vào Nhà Trắng hội đàm với Tổng thống Bush, tôi nghe một nhóm, dù nhỏ, kiều bào hô đả đảo Thủ tướng mà thấy buồn. Tôi nghĩ chưa hẳn họ thù ghét gì cá nhân Thủ tướng, mà chỉ là sự mặc cảm với quá khứ và sự thiếu thông tin về tình hình Việt Nam ..."



Lời phát biểu trên của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (NTD) tại Ballroom của khách sạn Hilton Houston trong một cuộc họp mặt nhỏ với một thiểu số kẻ thời cơ như Nguyễn Cao kỳ , vào lúc 7 giờ chiều ngày 25/6/2008, một lần nữa lại chứng minh cho người dân Việt thấy Nguyễn Tấn Dũng là một kẻ cuồng ngôn đại diện cho những tội đồ lãnh đạo Cộng sản Việt Nam (CSVN) là những tên cuồng sát không hề biết bốn chữ ăn năn xin lỗi là gì.

Trước hết, với một quá khứ đẫm máu và nước mắt dân tộc đưa đến cái chết của hơn ba triệu người dân vô tội và ngay cả đảng viên của họ ở các cuộc cải cách ruộng đất, Tết Mậu Thân 1968, trại cải tạo, vùng kinh tế mới, thủ tiêu thương binh của họ, v.v... CSVN mới chính là những kẻ phải mang mặc cảm về quá khứ diệt chủng đồng bào Việt Nam, chứ người dân là nạn nhân vô tội của chế độ phi nhân đâu có làm hại ai để mà phải mặc cảm với quá khứ. Khi nói người dân đừng mặc cảm với quá khứ, ông Nguyễn Tấn Dũng đúng là kẻ cuồng ngôn!


Thứ hai, khi nói rằng “Quê hương là vĩnh hằng”,

thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có cảm thấy thẹn với lương tâm ông hay không? Làm sao quê hương Việt Nam có thể vĩnh hằng cho được khi mà chính các ông là người đã dâng đất biển cho Trung Quốc.


Khi ông Nguyễn Tấn Dũng bảo rằng “quá khứ là lịch sử cần gác lại”,

vậy thì tại sao các ông lại hả hê ăn mừng 40 năm chiến thắng Tết Mậu Thân và cười trên nỗi khổ đau mất mát của người dân xứ Huế đã bị các ông chôn sống thuở nào? Nghiã trang quân đội và bia tưởng niệm thuyền nhân đã thuộc về lịch sử thế nhưng tại sao thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng không gác quá khứ sang một bên mà lại đi hèn hạ trả thù vong linh những người đã khuất? Ông Nguyễn Tấn Dũng có cuồng ngôn và quỷ biện hay không, khi kêu gọi người khác gác quá khứ trong khi chính ông lại cố tình làm sống dậy quá khứ đau buồn của người dân ?


Ông NTD nghĩ "chưa hẳn họ (đồng bào hải ngoại) thù ghét gì cá nhân Thủ tướng, mà chỉ là sự mặc cảm với quá khứ và sự thiếu thông tin về tình hình Việt Nam".

Ông Nguyễn Tấn Dũng lại suy bụng ta ra bụng người. Chỉ có những tên cộng sản khát máu như ông được dậy dỗ bằng hận thù nên mới thích thù hận người dân. Những người quốc gia quen sống với trái tim nhân bản đâu có nhu cầu thù ghét ông làm chi cho bẩn óc mình. Sẽ có ngày luật pháp và lưới trời xử tội ông. Còn nếu ông bảo là đồng bào hải ngoại thiếu thông tin thì quả là ông lộng ngôn. Ở hải ngoại ai mà chả biết những việc làm sái quấy cuả lãnh đạo CSVN. Không những thế tiền ông dấu ở ngoại quốc kín như bưng, ấy thế mà cả thế giới đều biết thủ tướng NTD có tới một tỉ 480 triệu Mỹ Kim (tài liệu Poliburos network)! Đúng hơn ông Nguyễn Tấn Dũng nên dành câu nói đó cho đồng bào quốc nội bị bưng bít thông tin là hợp tình hợp lý nhất.


Ông NTD bảo " đất nước còn khó khăn, chúng ta hãy cùng gác lại quá khứ, nhìn vào mục tiêu chung này để chung sức xây dựng đất nước".

Ông Dũng thừa biết kẻ gây ra tình trạng khó khăn ngày hôm nay chính là thành phần lãnh đạo tham nhũng trong đó có ông. Muốn giải quyết khó khăn thì ông và các đồng chí của ông từ chức là mọi chuyện sẽ êm thắm ngay.

Nếu muốn kêu gọi đồng bào hải ngoại về xây dựng đất nước thì việc trước tiên ông NTD và các đồng chí tham nhũng của ông phải làm gương trả lại dân tộc VN 20 tỉ mỹ kim tiền ăn cắp của dân và dùng số tiền đó xây dựng quê hương. Nếu ông Dũng không làm được điều trên thì những lời ông nói ra vẫn chỉ là lộng ngôn mà thôi.

Qua chuyến du Mỹ lần này của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, món hàng nghị quyết 36 được rao bán bởi anh lái buôn Nguyễn Tấn Dũng thật là ế ẩm! Suốt những chặng đường đi buôn Nghị Quyết 36 này ông Nguyễn Tấn Dũng chỉ gặt hái được sự nhục nhã và thất bại ê chề mà thôi. Người Việt tỵ nạn CSVN không phải là những con bò sữa ngây thơ để cho Nguyễn Tấn Dũng vắt sữa bằng những lời đường mật dụ khị thực hiện nghị quyết 36.

Phạm Thăng Long
Post Reply