Saigon ngày ấy

Làm đẹp Diễn Đàn Kỹ Thuật

Moderator: HungNguyen

Post Reply
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Saigon ngày ấy

Post by uncle_vinh »

Saigon ngày ấy

Hoàng Lan Chi


Năm 54 – 60

Ngày ấy tôi còn bé lắm. Lênh đênh trên chuyến tầu cuối vào Nam theo cha mẹ chứ chẳng biết gì.. Chuyến đi êm đềm không gì đáng nói .
Tôi thấy nguời Pháp cũng đàng hoàng. Thì đâu chả thế. Cũng có nguời này nguời kia. Nguời hèn nhát, kẻ can đảm.Nguời quá khích, kẻ trung dung.
Nguời Pháp trên tầu tử tế. Họ cho ăn uống đầy đủ . À mà tôi không hiểu tại sao họ phải tốn đủ thứ để đưa nguời di cư vào Nam ? Nếu họ cứ mặc kệ thì số dân Bắc có đến đuợc miền Nam dễ dàng không ?

Đầu tiên chúng tôi cặp bến Vũng Tầu. Rồi xe đưa vào Saigon . Chúng tôi ở tạm tại Nhà Hát sau này được sửa thành Toà Quốc Hội . Mấy hôm sau thì phân tứ tán. Chính phủ trợ cấp cho mỗi đầu nguời là bao nhiêu đó, tôi không nhớ vì quá bé..

Nơi tôi ở đầu tiên là Cây Quéo. Đuờng Ngô Tùng Châu. Gia Định.

Gia đình tôi là người Bắc đầu tiên đến đây. Sau này đọc truyện và biết con trai Bắc hay bị con trai Nam đánh và xỏ xiên “ Bắc kỳ ăn cá rô cây “ .. Nhưng gia đình tôi hên. Nơi xóm nhỏ, người Nam thật thà đôn hậu . Họ cư xử tử tế với chúng tôi . Đôi khi tôi lẩn thẩn nghĩ, hay vì gia đình tôi là nhà giáo ? Tinh thần tôn sư trọng đạo đã ăn sâu trong giòng máu dân Việt ? Họ rất tôn trọng và lễ phép đối với cha mẹ tôi . Một điều thưa ông giáo, hai điều thưa bà giáo ..

Con đuờng đến trường tiểu học thật dễ thương . Ngày ấy chúng tôi đi bộ nhiều, chẳng vù vù xe máy như bây giờ. Đi bộ đến trường thật vui. Cứ tung tăng chân sáo , vừa đi vừa hái hoa bắt buớm.

Ôi sao ngày đó Saigon nhiều hoa bướm thế. Hai bên đuờng những hàng rào hoa dâm bụt đo đỏ xinh xinh. Nhìn vào trong, nhà nào cũng có vườn, cây cối xum xuê.. Buớm bay la đà .Những con buớm đủ mầu sắc nhưng buớm vàng nhiều nhất. Nếu nhìn riêng thì buớm vàng không đẹp nhưng khi bay lượn giữa rừng lá xanh thì đàn buớm vàng thật duyên dáng. Chúng như một nét điểm xuyết cho bức họa hoa lá ..Tôi thích nhìn buớm bay .Tôi thích ngắm hoa nở.

Truờng học to vừa phải . Lớp học đủ ánh sáng. Mỗi sáng thứ hai chào cờ . Đứng nghiêm và hát quốc ca. Này công dân ơi, đứng lên đáp lời sông núi.. Ừ thì thanh niên luôn được dạy dỗ là đáp lời sông núi..
Chúng tôi được học những bài công dân giáo dục đầu tiên và …đã ăn sâu mãi vào tiềm thức. Đủ biết các cụ nói uốn cây khi chúng còn non là đúng. Tuổi ngây thơ coi những lời Thầy cô là khuôn vàng thuớc ngọc.

Không phá của công
Không xả rác ngoài đuờng
Phải nhuờng ghế cho người lớn tuổi, phụ nữ có thai trên xe buýt
Phải dắt em bé hay cụ già qua đuờng
Phải ngả nón chào khi xe tang đi qua ..
Không gian lận. Nói dối là xấu xa..

Chúng tôi đã được dậy như thế đó và chúng tôi đã làm theo như thế đó . Ôi Saigon của tôi ơi , bây giờ tôi đi giũa phố phuờng mà lạc lõng vô cùng khi chỉ mình tôi ngả nón chào nguời chết hay chạy nép vào lề nhuờng cho xe cấp cứu đi qua !
Rồi những bài học thuộc lòng. Rất giản dị dễ nhớ .

Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chẩy ra

Những buổi sáng vừng hồng le lói chiếu.Trên non sông làng mạc ruộng đồng quê.Chúng tôi ngồi im lặng lắng tai nghe.Tiếng thầy giảng súôt trong giờ quốc sử
Sung suớng quá, giờ cuối cùng đã điểm. Đàn chim non hớn hở dắt tay về. Chín mươi ngày vui suớng ở đồng quê ..

Cuộc sống sao êm đềm và thanh bình quá. Không có những cuớp bóc lớn lao . Ăn cắp vặt cũng không ghê gớm.Tôi còn nhớ phơi quần áo trước nhà rất an toàn chẳng phải trông chừng ..

Tôi còn nhớ ruộng miền nam nhiều nơi không chia bờ rõ rệt. Tôi còn nhớ cây trái Lái Thiêu không vạch lối ngăn rào. Tình hàng xóm là tất cả. Khi chia rào , ngăn lối là xúc phạm. Tự nguời dân quê biết đâu là đất là vùơn của mình. Vào vuờn Lái Thiêu cứ tha hồ ăn .Chỉ khi mua về mới phải trả tiền. Ôi sao ngày ấy nguời ta hiếu khách và cuộc sống thanh bình đẹp đẽ quá ?? Có phải là một phần nhỏ thiên đuờng nơi hạ giới chăng ?

Tôi nhớ nhiều về lễ quốc khánh đầu tiên năm 56 thì phải. Đúng là lễ hội. Pháo hoa tưng bừng và nguời nguời ra đuờng trong hớn hở reo vui. Không chửi bới, không chà đạp, không giành đuờng xem lễ .. Saigon bấy giờ còn thênh thang lắm. Saigon bấy giờ chưa đông đúc bon chen ..

Ngày ấy các bà Bắc hay Trung đi chợ còn mặc áo dài. Lề thói xưa còn ăn trong nếp ấy .
Ra đuờng là phải lịch sự . Khi lễ lạc thì phải mặc quần đen với áo dài chứ không được quần trắng vì như thế là thiếu lễ ..

Tôi còn nhớ một gia đình trung lưu là đã có thể thuê nguời làm. Đa phần người làm là các cô gái miền Trung. Đúng là quê hương em nghèo lắm ai ơi. Đât khô cằn sỏi đá đã khiến bao cô gái quê vào miền Nam giúp việc . Thưở ấy người miền Nam hay dùng từ “ở đợ” còn người Bắc gọi là người làm ...

Các chị giúp việc thuờng rất trung thành và lễ phép với chủ nhà. Các cô cậu con chủ nhà cũng được tôn trọng. Bà chủ thuờng ở nhà và chị phụ giúp vì nhà nào cũng khá đông con. Ban đầu thì ba, bốn và sau thành sáu ..

Tôi còn nhớ lương giáo sư đệ nhị cấp tức dạy từ lớp đệ thất đến đệ nhất của cha tôi là 5200 đ , vợ được 1200 và mỗi con là 800 (không hạn chế số con). Tô phở khá ngon là 5 đồng. Coi như luơng Giáo sư là 1040 tô phở.. Lương người giúp việc là 300 đ . Luơng Bộ trưởng gấp 5 lần lương giáo sư vào khoảng 25.000 đ. Còn lương Đại uý thì bằng lương Giáo sư . Nếu bây giờ 7000 đ tô phở bình dân thì lương của giáo viên cấp ba phải là 7.000.000 đ .

Hồi đó chúng tôi thi một năm hai kỳ gọi là đệ nhất và đệ nhị lục cá nguyệt . Đề thi hoàn toàn do Giáo viên (cấp tiểu học)hay Giáo sư phụ trách ra đề . Hồi đó không có nạn các Giáo sư hay giáo viên kéo trò về nhà dậy kèm hay bán đề thi . Đơn giản có lẽ vì đồng lương đã đủ sống nên họ không phải bán rẻ lương tâm ..

Cuối năm lớp nhất thì chúng tôi phải thi bằng Tiểu Học. Sau đó thi vào đệ thất các lớp truờng công. Ai rớt thì học truờng tư. Tất nhiên phải học giỏi mới thi vào được những truờng công danh tiếng như Gia Long,Trưng Vương,Petrus Ký, Chu Văn An ..

Những tháng ngày tiểu học với tôi là tung tăng chân sáo, là chơi nhiều hơn học là hái hoa bắt bướm , là nhảy lò cò , là chơi giải ranh, chơi ô quan . Đúng ba tháng hè là chơi thoả thích ..Ôi chơi chơi..sao mà thú vị thế . Nhớ đến tiểu học của con gái lại xót xa. Học quá nhiều để có thành tích cho Thầy cô , cho truờng lớp .. và con gái tôi không bao giờ biết đến
Chín mươi ngày vui suớng ở đồng quê

Năm 60 – 67

Đậu tiểu học xong tôi thi hai truờng Marie Curie và Gia Long . Lẽ ra phải thi Trưng Vương mới đúng nhưng không biết sao cha tôi quyêt định vậy.
Những ngày đầu đi học Gia Long súng sính đầm. Lý do cha định cho học Marie Curie nhưng phút chót lại chuyển sang Gia Long.

Số tôi lại hên. Cô Bắc kỳ lạc lõng giữa rừng nữ sinh Nam kỳ mà không hề bị chia rẽ hay kỳ thị. Như ngày xưa, nguời dân Saigon đã cưu mang gia đình tôi ở Cây Quéo . Từ Thầy cô đến bạn bè, chẳng ai thắc mắc vì sao tôi mặc đầm

Tôi học sinh ngữ Pháp Văn. Trường có bảy lớp Anh và bảy lớp Pháp. Tôi học đệ thất 14, lớp chót . Những năm đầu Trung học tôi đi xe đưa ruớc của truờng.
Thế là hết những ngày chân sáo , hết những ngày đuổi buớm bắt hoa . Chỉ còn ngồi trong xe hiệu đoàn ngăm phố phường qua khung cửa sổ …

Xe truờng đưa các nữ sinh lớp sáng về nhà và trên đường đi ruớc các nữ sinh lớp chiều. Trong khi chờ đợi xe đến đón, tôi thuờng cột áo dài và trèo lên cây trứng cá trước nhà để hái trái nhâm nhi ăn chơi hay đem vào lớp cho bạn. Nghe tiếng còi xe ngoài đuờng thì tụt xúông xách cặp chạy ào ra. Nhà xa nên tôi bị đón sớm và về muộn. Bây giờ nhớ lại thuở cột áo leo cây thấy vui vui..Hay khi vào truờng cũng cột tà áo để nhảy lò cò !

Trường Gia Long rất đẹp. Cơ ngơi thật đồ sộ , bốn phía là bốn con đuờng. Ngày ấy chính phủ đặt tên đuờng có chủ đích rõ ràng. Đặt theo từng vùng các danh nhân văn võ. Không đặt lộn xôn lung tung .. .

Gia Long của tôi đã đuợc bao quanh bởi danh nhân văn chương như Bà Huyện Thanh Quan , Phan Thanh Giản, Đoàn Thị Điểm và Ngô Thời Nhiệm.
Chính giữa truờng là con đuờng tráng nhựa thật đẹp và chúng tôi hay gọi đùa là đuờng Bonard. Giờ ra chơi các nữ sinh dắt tay nhau thơ thẩn trên con đuờng ấy trông thật dễ thương

Rồi gia đình tôi chuyển sang Vạn Kiếp . Trước nhà có một bụi tre và đối diện là khoảng vuờn mênh mông của chủ đất với những cây cau thẳng tắp .

Năm 60 có nghe tin về Măt trận giải phóng gì đó nhưng tôi chẳng quan tâm. Thứ nhất còn bé phải lo học, thứ hai .. mọi cái lúc bấy giờ đã được chính phủ đưa dần vào nền nếp và chiến tranh ..còn xa lắm.. Đó là thời điểm cực thịnh của nền Đệ nhất Cộng Hoà

Ngày đó chưa có truyền hình. Mới chỉ là truyền thanh. Chương trình khá phong phú. Tôi thích vừa làm toán vừa nghe nhạc. Cũng có chương trình Tuyển lựa ca sỹ hàng tuần nhưng phải nói .. đa số hát dở chứ không như các cuộc thi bây giờ, thí sinh hát khá vững .

Báo chí nở rộ. Ai có tiền thì ra báo. Không cần phải là nguời của cơ quan chinh quyền như bây giờ. Tôi mê xem báo. Tôi đói tin tức. Ngày đó có vụ thuê báo . Các em bán báo lẻ hay quầy bán báo nếu bán không hết thì cuối ngày trả lại toà soạn. Vì thế một số quầy báo có sáng kiến cho ..thuê báo . Nguời đọc thuê và trả tiền chỉ chừng phân nửa. Tất nhiên tiền đó chui vô túi chủ quầy báo và nguời bị thiệt hại là chủ nhân tờ báo . Gia đình tôi chỉ mua một tờ và trao đổi với cậu tôi ở gần nhà tờ khác. Coi như tốn tiền một mà được xem hai báo.

Báo thiếu nhi hơi ít . Báo chí đối lập được tự do hoạt động. Do đó có gì xấu xa của chế độ hay chính quyền thì những tờ báo đó vạch ra ngay. Còn những tờ thân chính phủ ..thì bị báo chí đối lập gọi là nâng bi …

Sách thì rất nhiều. Đủ các loại. Mỗi nhà xuất bản có nét đặc thù riêng. Như nói đến Lá Bối là biết ngay các loại sách về Thiền, Phật …Nói đến Khai Trí là sách về Văn học Nghệ Thuật…Văn thi sỹ nở rộ . Tất nhiên cũng chia làm nhiều loại . Có những văn sỹ chuyên viết tiểu thuyết tâm lý xã hội và được các bà nội trợ bình dân hay các tiểu thương ái mộ như bà Tùng Long. Có những nữ văn sỹ viết khá bạo như Nguyễn Thị Hoàng với cuốn truyện nổi đình đám Vòng tay học trò. Nội dung truyện kể về chuyện tình của một cô giáo với học trò bằng một giọng văn … khó hiểu. (theo thiển ý cá nhân tôi !) Có những văn sỹ miền Bắc viết chuyện trong thời gian họ đi kháng chiến chống Pháp rất hay như Doãn Quốc Sỹ . Thời ấy thi sỹ cũng nhiều. Nào Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Du Tử Lê, Nguyên Sa,Hà Huyền Chi, Hoàng Anh Tuấn ,Mường Mán .. ..

Thơ văn Saigon hồi ấy như trăm hoa đua nở. Đủ loại và tự do sáng tác theo cảm hứng, không phải viết theo một khuôn mẫu nào. Do đó rất phong phú. Nhưng tôi lại thích đọc sách phóng tác hay dịch !( vì chưa đủ trình độ đọc nguyên tác ) Mỗi lần hè về là tôi mê mẩn ngốn hàng tá truyện ..

Vật giá có lên nhưng chỉ chút đỉnh .. Cũng chỉ mình cha đi làm còn mẹ ở nhà chăm lo con cái. Thuở tiểu học thì mẹ tôi kèm tất cả các môn . Lên Trung học thì bà không dạy được các môn khoa học nhưng Pháp văn thì vẫn tiếp tục cho đến tú tài vì ngày xưa mẹ tôi có bằng Certificat gì đó .

Cuộc sống vẫn êm đềm và khá thanh bình. Nhưng từ năm 61 thì …không còn nữa. Đuờng đi thuờng xuyên bị đắp mô. Quốc lộ thì ít và tỉnh lộ thì nhiều hơn. Địa phương quân mỗi sáng sớm phải đi phá mô . Xong xuôi thì dân chúng mới dám đi lại. Đã có những mô nổ tung và cả chuyến xe đò tan tác.. Rồi những năm sau là những lần nổ ỡ vũ truờng nơi quân Mỹ thuờng lui tới. Tất nhiên dân thường cũng vạ lây.

Tôi vẫn ngoan ngoãn với sách đèn. Chẳng hề giao du bạn trai vì cha mẹ cấm . Ngày ấy Gia Long và Trưng Vương là hai trường nữ nổi tiếng nhất . Hàng năm chỉ có một kỳ thi chọn học sinh giỏi là Trung Học Toàn Quốc. Lẽ dĩ nhiên số đậu rơi vào bốn truờng lớn. Còn Lễ Hai Bà Trưng hàng năm được tổ chức khá lớn và hai nguời đẹp của Gia Long, Trưng Vương được đóng vai Hai Bà ngồi voi diễn hành ..(bây giờ ở VN dùng từ diễu hành ??? Tôi không hiểu vì sao lại diễu hành thay cho diễn hành ???)

Đề thi của mỗi môn cũng vẫn do Giáo sư môn đó phụ trách. Tôi thấy như vậy mà hay. Chẳng có gì lộn xôn xảy ra vì thời ấy không có nạn cha mẹ hối lộ Thầy cô . Mãi năm tôi học đệ nhất thì thi chung toàn khối và đã có rắc rối xảy ra. Chẳng hạn đề thi triết đệ nhất lục cá nguyệt là của cô Lan dạy chúng tôi thì lớp chúng tôi làm được còn các lớp khác thì không ..

Hồi đó bậc Trung Học chúng tôi phải thi tổng cộng : Trung Học ( hết lớp đệ tứ ) Tú tài 1 (hết lớp đệ nhị) và Tú tài 2 ( hết lớp đệ nhất ) .. Nhiều bạn sau khi có bằng Trung Học thì đi làm. Có thể chọn nghề thư ký .Sau Tú tài 1, rụng bớt một số bạn. Sau Tú 2 rụng một số. Số học giỏi và có điều kiện thì tiếp tục con đường đại học

Đề thi đại học do các trường tự phụ trách. Ngày thi lệch nhau. Truờng nào cũng công bố danh sách thi đậu chính thức và dự bị . Do đó tôi cảm thấy rất trật tự nề nếp chứ không lộn xộn như bây giờ. Nếu gọi danh sách chính thức mà thiếu thì truờng gọi đến dự bị . Đơn giản vậy thôi. Nhưng có lẽ hồi đó vấn đề hối lộ , bán đề thi không kinh khủng để đến nỗi Bộ Giáo Dục phải xen vào ra đề chung như VN bây giờ.. Lại cũng do vấn đề tiền lương. Khi đồng lương không đủ sống thì ..tư cách con người suy giảm ..

Đuờng phố Saigon của những năm 63 vẫn còn xe Mobylette và dễ thương ngộ nghĩnh là Velo solex. Chiếc xe xinh xắn nhưng có cái bầu to phía trước . Nữ sinh thường đi xe này . Khi chạy xe, tà áo dài phía sau phồng lên trông rất vui. Nhưng đa số học sinh vẫn đi xe đạp.. Số xe máy rất ít. Và vì thế đuờng phố Saigon vẫn khá thênh thang.. Năm đệ tam thì tôi không đi xe đưa rước nữa mà chuyển qua xe đạp. Cũng khá xa mà sao hồi đó chúng tôi không thấy gì. Chả như bây giờ sân trường cứ tràn ngập xe máy mà lại còn xe phân khối lớn.. Đợt vừa qua năm 2002,Saigon có chấn chỉnh cấm học sinh chạy xe phân khối cao. Thì ..các cô cậu quý tử đối phó bằng cách ….không gửi xe trong truờng mà gửi xa xa ! !!

Năm tôi học đệ tứ 1963 thì xẩy ra vụ Phật Giáo . Sau đó nền Đệ nhất Cộng Hoà sụp đổ. Tôi không ghét ông Diệm nhưng tôi ghét bà Nhu. Vì tính tình xấc xuợc của bà . Nhưng phải nói hồi đó với tôi, xã hội tương đối ổn định, trật tự nề nếp. Dù ông Nhu có lập Đảng Cần Lao nhưng …không ép buộc lộ liễu . Họ cũng gợi ý nhưng không vào thì thôi. Cũng chẳng vì thế mà bị đì sói trán . Hay trong ngành giáo dục của cha tôi , người ta không trắng trợn ????? Tôi chỉ biết nếu học giỏi là được học bổng , không bị phân chia lý lịch gì cả ..

Sau 63, các trường có Ban Đại diện. Ngày đó tôi không chú ý lắm các thành phần ứng cử . Nhưng sau này , các anh chị lớn nói rằng , học sinh - sinh viên giỏi thường bù đầu với việc học, ít tham gia các hoạt động trên. Do đó CS cài nguời vào nằm vùng ở hầu hết Ban đại diện các trường. Họ được huấn luyện kỹ nên ăn nói hoạt bát .Còn học sinh giỏi thì không có thời gian luyện khoa ăn nói …

Saigon của tôi sau những ngày đấu tranh sôi nổi , sau những biểu tình, sau vụ tự thiêu của Hoà Thượng Thích Quảng Đức ..lại êm ả trở lại. Nhưng không như xưa vì liên tiếp các đột biến về chính trị. Cuộc chỉnh lý của Tuớng Nguyễn Khánh rồi chẳng bao lâu đến phiên của Tuớng Thiệu và Tuớng Kỳ

Tôi chỉ biết học và không chú ý đến những việc khác. Liên tiếp hai năm thi tú tài 1 và 2 đã ngốn tất cả quỹ thời gian .Nhưng tôi chỉ nhớ Tú tài 1 chuơng trình đã bị cắt giảm vì chiến tranh..

Cũng từ 65, quân Mỹ đổ vào đông và đã gây xáo trộn. Lính Mỹ lấy vợ Việt. Đa số là các cô gái nhảy , thời đó gọi là cave hay cả các cô xuất thân là nguời giúp việc. Me Mỹ là tên dân chúng gọi cho những cô này . Nội cái tên gọi đã nói lên sự khinh rẻ của dân chúng dành cho những cô gái ấy. Nghĩ cũng đáng thương .. Nhưng cũng chính những đồng đô la xanh mà các cô me Mỹ tiêu vô tội vạ đã làm vật giá Saigon tăng cao. Gọi là đô la xanh vì lúc ấy chính quyền Mỹ in riêng một loại đô la cho quân Mỹ dùng ở VN... Người làm của chúng tôi lấy Mỹ và.. đổi đời..

Cuộc sống của giới trung lưu như giáo sư bắt đầu lao đao.. Giáo sư nào dạy tư thêm thì còn đỡ.. Gia đình tôi hạn chế mọi chi tiêu vì cha không dạy tư và yêu cầu mẹ phải ở nhà chăm sóc việc học của các con .

Ai có thời gian để gửi thư tình tự. Ai có lúc lang thang quán ăn hàng. Còn tôi thì không. Cắm đầu cắm cổ học . Đi học là về nhà ngay. Ngày đó chúng tôi , gồm chị tôi và tôi đều học Gia Long nên không có vụ bạn trai nào dám đến nhà. Chúng tôi cũng chẳng học tư nhiều. Mà học tư vào những năm thi thì cũng né con trai tối đa. Lệnh cha mẹ phải chấp hành nghiêm chỉnh. Thậm chí sau này chị tôi học duợc cũng vẫn không hề có một tên “ masculin” nào dám đến nhà !

Tôi thích con gái đi học bằng xe đạp và nón lá nghiêng nghiêng . Từng vòng xe quay chầm chậm nhỏ bé . Áo dài ngày đó mặc rất kín đáo . Chúng tôi bắt buộc phải có áo lá bên trong. Và các bà giám thị luôn coi chừng nhắc nhở những nàng mặc áo quá chít eo, những nàng khua giày cao lộp cộp.. Chúng tôi đi sandalh .Rất dễ thuơng. Tôi không thích học trò quá điệu. Áo thật eo hay guốc cao . Mà thật kỳ. Đa số mấy cô điệu thuờng học kém và có bồ sớm. Các cô giỏi thì nguợc lại !

Nhưng cũng có cá biệt . Tôi còn nhớ ngày đó cô bạn ban B Kim Dung rất xinh học giỏi được chọn làm Tây Thi trong vở kịch cuối năm ..chẳng điệu gì cả. Riêng lớp tôi thì chỉ có vài chị điệu và tất nhiên ..học dở , có bồ sớm ..

Năm tôi thi tú tài, chỉ còn viết và bỏ vấn đáp. Chứ truớc kia, một số môn phải thi viết và vấn đáp (còn gọi là oral)
Tôi đậu tú tài cao và đuợc truờng thuởng hai chữ Gia Long quyện vào nhau bằng vàng 18. Những năm sau, truờng đổi lại là hoa mai vàng. Đó cũng là phù hiệu của Gia Long
Tôi mê Y khoa và .. ghét duợc. ! Tôi thích là bác sỹ để chữa bịnh cho trẻ em và tự nhủ sẽ chữa miễn phí cho em nào mắc bệnh sài uốn ván. Tất cả …chỉ vì tôi mất một đứa em trai vì bệnh này ..

Còn Duợc khoa ? chẳng hiểu sao tôi ghét nữa ? Tôi nói rằng học duợc, ra bán thuốc ngồi đếm từng đồng xu leng keng ! Chính vì thế sau này có một duợc sỹ đại uý theo , tôi đặt tên anh ta là đại uý leng keng !

Nhưng nghề chọn nguời chứ nguời không chọn đuợc nghề. Tôi thi rớt dù học giỏi. Năm đó đề thi y khoa bắt đầu có câu hỏi tổng quát , hỏi về những kiến thức xã hội chung quanh. Tôi học chăm quá nên vào phòng thi bị đuối sức, quỵ ngã ..

Năm 67-71

Tôi ghi danh Khoa Học, Chứng chỉ Lý hoá vạn vật tức SPCN.Nơi đây quy tụ nhiều nguời đẹp nhất Khoa học vì sinh viên xuất thân ban A. Còn chứng chỉ MGB hay MGP thì ít con gái hơn...
Chương trình học khá nặng. Buổi sáng thực tập đủ năm môn (Động Vật,Thực vật, Lý,Hóa, Địa Chất)và chiều học lý thuyết. Tôi thích thưc tập thực vật hơn các môn kia. Cắt ngang hoa dâm bụt hay lá gì đó xem đuợc cấu trúc của nó duới kính hiển vi rất đẹp. Tôi không thích thực tập địa chất. Toàn những mẩu đá vô tri giác . Tôi cũng không thích lý với những bài dây điện loằng ngoằng.Thực tâp động vật tuy sợ nhưng cũng thích Mổ con vật ra và xem cơ thể bên trong rất thú vị

Chính ở đây là những mảnh tình trong sân truờng đai học. Vì có cơ hội tiếp xúc bạn trai .Chứ những ngày Gia Long hết đi xe hiệu đoàn đến xe đạp và mê học quá chừng đâu chú ý ai ..
Năm đầu tiên đại học tôi chứng kiến tết Mậu Thân. Sáng sớm nghe nổ mà ngỡ tiếng pháo . Khi nghe tin Saigon bị tấn công, tôi bàng hoàng.. Trời ? thủ đô ?

Mấy ngày sau từ nhà nhin về phía Gò Vấp thấy trực thăng thả rocket từng chùm .. Lần đâu tiên cô bé nữ sinh chứng kiến tận mắt chiến tranh dù chỉ là một phần nhỏ. Thực ra truớc đó những lần các quán bar bị đặt mìn nổ, xác nguời tung toé..

Sau những ngày kinh hoàng, Saigon của tôi lại như cũ.

Ngày đó sinh viên chúng tôi đi học mặc áo dài. Thỉnh thoảng có cô mặc đầm và không ai mặc tây cả.. Nên sân truờng đại học tung bay bao tà áo muôn mầu sắc . Cha mẹ khó nên tôi vẫn đơn giản áo trắng và ôm cặp như thuở Gia Long. Thỉnh thoảng mới áo mầu. Vì vậy khi tôi măc áo dài mầu, các bạn thấy lạ ..

Chiều thứ bảy , tôi thuờng cùng cô bạn lang thang Saigon để ăn hàng và ngắm ..phố phuờng. Hồi đó có lẽ không khí chưa ô nhiễm nên con gái Saigon tuổi muời bốn , hai mươi trông rất đẹp. Đẹp tự nhiên ở đôi mắt đen láy, nuớc da đỏ hồng . Có cô má đỏ au như con gái Đà lạt .Tôi thích nguời đẹp nên hay ngắm con gái Saigon trên hè phố . Tuổi học trò thích nhất là lang thang phố phuờng và ăn hàng . Đi học cũng thích …thầy bịnh để đuợc nghỉ rồi rủ nhau ra quán tán dóc. Thât ra bọn con gái chúng tôi siêng năng đi học nên thích vậy chứ môt số ông con trai ..rất ít đến giảng đường. Mấy ông đó chỉ đi thực tập vì có điểm danh . Vả lại không đi thì sẽ không biết làm ? Còn lý thuyết thì lâu lâu đáo vô một chút. Cuối năm băt đầu ngồi tụng .Tất nhiên cour đâu bằng bài giảng của Thầy. Thế là các ông tướng này đi theo năn nỉ mấy cô như tôi cho mượn tập ! Ngày đó nam sinh viên có nỗi lo, đó là nếu thi rớt sẽ đi quân dịch.

Đời sống đắt đỏ, vật giá leo thang hoài. Chiến tranh cũng vậy. Quay trái, quay phải, sau lưng, truớc mặt , đâu cũng có nguời đi lính và chết. Có năm sinh viên phản đối chính quyền, đã vô xé bài không cho chúng tôi thi. Sau này , điểm danh lại thì trời ơi ..mấy tay kích động , phá hoại đó ..toàn là dân nằm vùng !

Tôi bắt đầu gửi bài đăng báo năm đệ tứ . Đăng và dấu nhẹm , không dám cho gia đình biết. Hai năm sau thì bận thi tú tài 1 và 2 nên ngưng. Khi lên năm thứ hai đại học thì tôi lai rai viết lại . Thuở đó báo có số phát hành nhiều nhât là tờ Chính Luận. Thiên hạ đổ xô đăng quảng cáo ở đây rất nhiều . Báo có mục Nói hay đừng. Nội dung là viết linh tinh đủ vấn đề nhưng khuynh huớng là chỉ trích những việc …đáng bị chỉ trích. Tôi lấy bút hiệu Quỳnh Couteau . Tôi còn nhớ có mấy cây bút sinh viên của mục này : Quỳnh Couteau của Khoa học, Thảo gàn của Nha khoa, Thu hippy duờng như văn khoa..

Tôi viết truyện tình cho báo Tiếng Vang. Tôi có thói quen mua từng ram giấy pelure đủ mầu và viết bài trên đó. Tương đối tôi viết khá dễ dàng. Đặt bút là viết. Hiếm khi sửa lại hay bôi xoá. Để bài mình đuợc.. đăng nhiều và liên tiếp, tôi lấy khá nhiều bút hiệu. Nhưng tôi biết nhà văn Thanh Nam, nguời phụ trách trang đó biết là cùng một nguời .Vì cùng một nét chữ, cùng cách sử dụng giấy pelure hồng, vàng .. Tiếng Vang gửi nhuận bút 500/bài, Chinh Luân thì cao hơn 800/bài . Sau này tôi lai rai nhảy qua Sóng thần của Chu Tử..

Tôi nhớ duờng như sau một năm tôi có bật mí trong một truyện , các bút hiệu 1,2,3,4 …đều chỉ là một nguời ! Có điều vui là ….các độc giả cũng ái mộ , gửi thư đến toà soạn ..xin làm quen . Vui hơn nữa là khi tôi đến toàn soạn lãnh nhuận bút gặp cô con gái chủ nhiệm Quốc Phong Cô này lúc đó thay thế nhà văn Thanh Nam phụ trách trang Truyện tình của bạn .Không biết sao chỉ gặp lần đầu, nhìn xa xa mà cô rất thích tôi . Hôm sau xuất hiện trên báo giòng nhắn tin của cô “ PQ, hôm qua PQ đến mà chị không dám ra nói chuyện vì đang đau mắt.Nhưng thấy PQ xinh quá , giọng bắc thật dễ thưong.. “ Giời ạ, sau dòng nhắn của cô thì …thơ của độc giả ái mộ gửi đến quá xá luôn. Tất nhiên tôi vẫn dấu nhẹm mọi nguời trong gia đình. Nếu không, bố tôi cho ăn chổi chà về tội không học, lo viết chuyện đăng báo ! Thực ra tôi vẫn chăm học. Viết truyện tình ngắn với tôi..dễ ẹt ! Chỉ mất chừng một giờ . Mà lại có 500 hay 800 để đãi bạn bè ăn hàng thì cũng thú vị . Tiếc là sau này Tiếng Vang tự đình bản và tôi quay qua viết cho Sóng Thần hay Dân Luận.

Hồi đó sinh viên chúng tôi hay ra thư viện để học. Thư viện khoa học thì nhỏ, múôn có chỗ phải đi sớm. Chỉ có tiện là ngay trong truờng thì sau đó vô giảng đường , không mất thời gian di chuyển . Còn thư viện đẹp là của ĐH Vạn Hạnh nhưng tôi ít đến vì xa nhà. Hai thư viện gần là TV Văn hoá Đức và Hội Việt Mỹ

Thư viện Văn hoá Đức nằm trên đường Phan Đình Phùng. Nhỏ thôi. Có máy lạnh. Nhưng ..tệ hại là không có nguời giữ xe. Xe cứ khoá để trong sân.Thư viện lại ở trên lầu . Và tại đây, tôi có những kỷ niệm vừa vui vừa buồn . Những kỷ niệm nho nhỏ ..

Thư viện bé nên chỉ một thời gian, những sinh viên hay lui tới đều biết mặt nhau . Tôi còn nhớ có một sinh viên già nhất, rất lập dị. Anh để hàm râu dài và xôm xoàm. Nghe nói anh đang học Luật . Gặp tôi vài lần ở cầu thang , mỉm cuời với nhau và thế là quen.

Có lần tôi ngồi học và có cảm tuởng ..Tôi nhìn sang thấy anh ở bên kia và .. đang vẽ ký hoạ tôi .Khi ra về, anh đưa và hỏi “ Hôm nay anh thấy em dễ thưong lắm. Em đã lấy mất một buổi học của anh. Vì .. vẽ em .. “ Có khi anh bảo tôi “ khi nào em lấy chồng, nhớ báo anh nhé “ “Anh sẽ mừng gì ?” “ một tạ muối “ “ Kỳ vậy “ “ Cho tình nghĩa vợ chồng của em đậm đà như muối ..”

T, bạn cùng Khoa học cũng hay đến đây.T đến vì tôi chứ không vì thư viện vì nhà T xa . Lắm lúc cũng chẳng học, vẽ hay viết lăng quăng mấy câu nho nhỏ gì đó cho tôi.

Rồi tôi bị mất xe ở đây. Hôm đó tự nhiên thấy nguời rất khoẻ và sáng suốt. Tôi say mê học. Thư viện về hết, chỉ còn mình tôi . Khi xuống thì chẳng thấy Honda , chiếc Honda mới toanh do gia đinh mới mua, giá 72. 000 đ ( luơng giáo sư lúc đó 23.000 ). Tôi hoảng hốt xuống phòng duới của bảo vệ, hỏi rất ngây thơ :

-Bác thấy xe cháu đâu không ?

Bác cuời :
- Không ? chắc lại bị ăn cắp rồi ?

Tôi tái mặt. Bác nói tôi đi khai báo. Tôi đi bộ đến bót cảnh sát trên đường Mạc Đĩnh Chi gần đó. Lão cảnh sát thấy ghét. Lão ghi chép xong lời khai rồi cuời cuời:

-Thế cô có biết ai lấy xe cô không?!!!

Tôi đi bộ từ đó về nhà ở Gia Định. Thấy con đi về , không có xe, cha mẹ hỏi. Mếu máo. Bố mắng tơi bời. Mẹ thì không .
Tôi nằm trên gác khóc súôt. Sao ... nguời ta ác thế ? sao ăn cắp xe của tôi ? Khoá rồi mà ?? ngày đó tôi ngây thơ và gà tồ kinh khủng..

Không thấy tôi đi học hay đến thư viện VH Đức, T tìm đến nhà. Thấy mắt sưng, T hỏi. Rồi thì T “ Tôi sẽ đi hỏi cho LC.Tôi quen tên đầu đảng , trùm ăn cắp xe ở vùng ..” Tôi tròn mắt ??? T, anh chàng đẹp giai, thông minh, đàn hay , vẽ gỉoi ..quen trùm du đãng ????!!!!!!!
Hôm sau T quay lại “ Bạn tôi không tìm đuợc vì không phải vùng nó kiểm soát. tụi nó rã xe nhanh lắm “

Tôi nghỉ học mấy bữa. T lại tìm đến :
- LC à, LC lấy xe PC của tôi đi học đi ? Tôi còn cái Mini Vespa mà ?

Tôi đỏ mặt. T là vậy. Muốn nói gì là nói.. Chẳng ngán ai ?

Còn Hội Việt Mỹ thì thư viện to, đẹp . Đa phần tôi viết truyện tình đăng báo ở đây ! Nhớ lại cũng vui. Khi báo đăng, tôi cắt và đem vào truờng cho bạn xem . Bạn gái xem thì ít (nhỏ Mai không có tâm hồn văn chuơng ) nhưng T xem thì nhiều. Có khi ..ngang đến độ …bỏ giờ học, ngồi ở thềm của lớp để xem truyện cuả tôi ! Bởi thế mấy chục năm sau , có nguời nghi ngờ , đoán rằng T, bạn ông ấy cũng chính là T ngày xưa của Khoa học, đã mét T . T tìm đọc và đã nhận ra văn phong của tôi . “ Văn LC lúc nào cũng vậy. Vẫn rất nhẹ nhàng , thơ mộng “
Văn vẫn vậy nhưng cuộc đời thì không vậy ?? bao nổi trôi sóng gió cho cô nhỏ đuợc một số ông ở khoa học gọi là “nguời có đôi mắt đẹp nhất phòng Hoá “ !!

Tình hình chiến sự ngày một leo thang . Tôi nhớ những sư kiện đăc biệt
- Vụ đầu cơ gạo của thương buôn Tàu và Tuớng Kỳ đã “chơi ngon “, ra lịnh xử tử Tạ Vinh. Ông tuớng này thuộc loại võ biền, ruột để ngoài da, phát biểu như cao bồi Texas . Chẳng cần biết sau này Tạ Vinh có bị xử tử thật hay không nhưng lập tức vụ gạo đuợc ổn định.
- Năm nào đó tôi tẩy chay không đi bầu khi Tuớng Thiệu độc cử !

Vật giá ngày leo thang luôn. Thì như đã nói, quân Mỹ xài phung phí, me Mỹ xài vung vít. Chỉ còn giới trung lưu như giáo chức là khốn đốn .

Tôi vẫn sống trong tháp ngà . Chiến tranh có làm suy tư thì chỉ trong phút chốc. Việc học cuốn hút. Và những ngày thứ bảy cuối tuần vẫn vi vút dạo phố Saigon ăn quà . Tuổi học trò thích nhất là ăn hàng . Tiền bố phát hàng tuần eo hẹp lắm vì nhà giáo mà. Nên tôi đã bổ sung ngân quỹ ăn hàng bằng các bài viết cho Tiếng Vang, Sống,Chính luận ..

Thời tiết Saigon ngày ấy không như bây giờ. Vì tôi nhớ đi học phải mặc áo dài suốt ngày. Nhà xa, sáng học thực tập, trưa ở lại và chiều học lý thuyết. Có lẽ ảnh hưởng thời tiết chung toàn thế giới và cũng vì Saigon .. không qúa đông như bây giờ ?

Mấy cô bạn Gia Long cũ, bỏ đi làm từ khi đậu tú tài thì có cô vô Ngân hàng, lương rất cao. Cô thì làm cho hãng Pháp, luơng coi như khoảng một lượng vàng/ một tháng.Lương chuẩn uý gần một lượng .

Quân nhân đuợc mua hàng rẻ gọi là quân tiếp vụ. Đa số mua xong , đem ra ngoài bán lại cho con buôn. Hồi đó có phong trào làm cho sở Mỹ vì lương rất cao ...
Thanh niên sinh viên lai rai biểu tình. Cứ biểu, cảnh sát biết hết ai là ham vui, ai là Cs nằm vùng ..

Tôi chưa bao giờ tham gia hay đi xem. Vì chăm học quá mà ? Nhưng đừng nghĩ rằng không nghe tiếng đại bác trong tháp ngà ! vẫn nghe đấy chứ. Cũng có những niềm riêng khắc khoải. Nhưng mục tiêu phía truớc phải đạt cho xong ..

Tôi ra truờng năm 71. Thân cư Mệnh nên suốt đời tự lo. Họ hàng, cha mẹ không giúp . Dù quen biết nhiều. Tôi viết bài Ba lần văn bằng cử nhân đi xin việc làm đăng trên Chính Luận. Nhà báo noi láo ăn tiền.Bi thảm hoá thêm. Chàng Giám Đốc Nha Viện Trợ trực thuộc Tổng Nha Kế Hoạch viết thư mới cô cử đến cộng tác.

Thế là hết những ngày lang thang sân truờng đại học. Hết những ngày khúc khích với anh trên đường Phùng Khắc Khoan , nghe lá me xanh reo trên tầng cao, hết những chiều thứ bẩy cùng cô bạn thân ăn hàng chợ Saigon , hết những ngày trong giảng đường nhỏ giờ Thầy Thới, nghe đuợc cả tiếng muỗi vo ve, hết cả những giờ xem hai phe chống và thích ruợt nhau trong sân truờng khoa học

Tôi bắt đầu vào đời.Từ ấy ..

Saigon của tôi …có những nét khác hơn của thuở học trò .Nhưng vẫn là Saigon của mưa nắng hai mùa, của áo lụa Hà Đông giữa trưa hè nóng bỏng, của tiếng chuông chùa Xá Lợi ngân nga. Của giáo đường nhà Thờ Đức Bà tung bay muôn mầu áo chiều chủ nhật
Saigon với áo dài tha thuớt . Áo Saigon không biết ngồi sau lưng Honda hai bên như bây giờ. Áo Saigon không biết phóng xe ào ào như bây giờ .. Ao Saigon không cuời hô hố trên đường phố như bây giờ . Áo Saigon không cong cớn như bây giờ . .
Và tôi , bao năm tháng trôi qua, vẫn một niềm hoài vọng về .. Saigon ngày ấy ..

Thấy tôi tròn mắt, T chỉ cuời.

Xin trả cho tôi nắng Saigon
Thênh thang đường phố lụa Hà Đông
Xin trả cho tôi mưa ngày ấy
Và trả cho tôi cả cuộc tình .
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Saigon ngày ấy

Post by uncle_vinh »

SÀI GÒN VÀ NHỮNG TÊN ĐƯỜNG XƯA

Trần Ngọc Quang


Từ hơn một thế kỷ nay, nước Việt Nam đã chịu rất nhiều thay đổi về chánh trị, hành chánh, văn hóa, xã hội.... luôn cả tên đường của Sài Gòn. Nhiều đường đã thay đổi tên hai, ba lần và vài đường mang tên các vị anh hùng hồi đời nhà Nguyễn đều biến mất. Vài người Việt ở nước ngoài khi trở về nước gặp nhiều khó khăn mới tìm lại được nhà mình đã ở lúc trước. Những bạn sanh ra sau 1975 lại không thể hình dung các tên đường thuở trước, nói chi đến lịch sử và tiểu sử của các vị đó. Riêng tôi, nhờ những kỷ niệm in sâu vào óc từ thuở niên thiếu và lại có tánh tò mò muốn biết thêm lịch sử nên tôi cố gắng nhắc lại đây vài tên đường để công hiến các bạn đọc giả và xin ngọn gió bốn phương cho biết thêm ý kiến để tu bổ về sau.

Tôi sanh ra tại nhà bảo sanh của Bác Sĩ Lâm Văn Bổn số 205 đường Frère Louis, gần chợ Thái Bình thuộc Quận 3 thuở đó của Đô Thành Sài Gòn, vào thời Đông Dương sắp vào chiến lửa binh đao, chín tháng trước khi Trân Châu Cảng chìm trong khói lửa, lúc đó Việt Nam còn là một thuộc địa của Pháp Quốc và nhiều đường Sài Gòn mang tên Pháp.

Tôi lớn lên tại Sài Gòn, tại số 148 đường Colonel Boudonnet dọc theo đường rầy xe lửa, sau nầy đổi tên là Lê Lai tới nay, đường lấy tên của Đại Tá Théodore Boudonnet thuộc Sư Đoàn 2 Bộ Binh Thuộc-Địa và Tư lệnh Sư Đoàn Bộ Binh An Nam, tử trận bên Pháp hồi 1914. Mặt đất đường nầy thấp hơn các đường Frère Louis, Phan Thanh Giản và Frères Guillerault nên mỗi khi mưa lớn là đường bị ngập : "nhờ vậy" mà sau khi tạnh mưa, dọc theo bức tường ngăn đường rầy và đường lộ những con dế từ đất chui ra hang để khỏi bị ngộp, nên tôi đi bắt đến khuya mới về ít lắm là ba bốn con và thường bị mẹ tôi quở trách.

Sau khi "chạy giặc" hồi 1945 vì máy bay đồng minh oanh tạc nhà ga và đường rầy xe lửa để chận tiếp tế cho quân Nhựt, gia đình tôi trở về sống tạm trước Nhà thờ "Huyện Sỹ" đường Frères Guillerault và năm sau rồi dọn trở về lại hẻm 176/11 đường Colonel Boudonnet.

Nhà thờ Huyện Sỹ xây cất năm 1905, ông là người giàu có vùng Gò Công, tên thật là Lê Phát Đạt và là Ông ngoại của Nam Phương Hoàng Hậu, vợ của Hoàng Đế Bảo Đại. Gần nhà thờ Huyện Sỹ có hai đường mang tên Frère nhưng nếu Frère Louis là để tưởng nhớ đến Thầy Louis Gaubert lập ra trường Tabert, đường Frères Guillerault (có chữ "S" sau Frères) là để tưởng nhớ đến hai anh em Roland và Léon Guillerault sinh trưởng tại Sài Gòn và tử trận trong Đệ Nhứt Thế Chiến bên Pháp.

Trong lúc "tản cư" tôi đi học lớp chót trường làng tại quận Hóc Môn và vì một sự tình cờ mà Ba tôi ghi cho tôi học tiếp miển phí lớp "Douzième" trường Chasseloup-Laubat, thay vì Petrus Ký như Ba tôi."Trường Chasseloup" xây cất trong ba năm nơi rạp hát bội của Tả Quân Lê Văn Duyệt, lúc đầu mang tên Collège Indigène de Saigon, nhưng khi khánh thành năm 1877 thì đổi lại là Collège Chasseloup-Laubat và từ 1928 trở thành Lycée có nghĩa là luyện thi đến lớp Tú Tài, mang tên của Hầu Tước Justin De Chasseloup Laubat, Bộ Trưởng Bộ Hải Quân và Thuộc Địa dưới thời Napoléon III, người quyết tâm chiếm và giữ Nam Kỳ. Hồi 1946 quân đội Pháp mới trở lại Việt Nam nên ít có gia đình và trẻ con Pháp sống tại Sài Gòn nên dư giáo viên mà thiếu học trò ! Lớp 12è niên khoá 1946-1947 trai và gái học chung tại Collège Calmette gần đó, sau đó vài năm trường nầy đổi tên là Lycée Marie Curie cho đến ngày nay. Tôi còn nhớ lúc ra về tôi chạy nhanh ra cổng, không phải để tìm Ba tôi, thường người ra sở trễ và đi xe đạp từ "Toà Tân Đáo" (Sở Ngoại Kiều) ở đường Georges Guynemer dưới Chợ Cũ lên rước tôi, mà là để tranh thủ thời gian để cạo mủ cao su !

Thật vậy, giữa trung tâm thành phố Sài Gòn không hiểu ông Tây nào có ý kiến trồng cây cao su theo hai bên đường Jauréguiberry cho có bóng mát ? Bernard Jauréguiberry là một Đề Đốc Pháp đã đánh vào Đà Nẳng và chiếm thành Gia Định, về sau giữ chức Thượng Nghị Sĩ và Bộ Trưởng Bộ Hải Quân, mà tại sao lại đặt tên cho một đường nhỏ bên hông trường Calmette ? Nhưng dù sao đi nữa những cây cao su đó, sau khi lấy đá đập vào vỏ thì chảy ra mủ trắng rất nhiều. Tôi trét mủ ấy trên cập da của tôi rồi khi mủ khô thì cuốn tròn quanh một cục sỏi và ngày qua ngày trở thành một trái banh nhỏ.

Như vậy tôi thuộc vào thành phần "Nam Kỳ chánh cống" và "dân Sài Gòn một trăm phần trăm", lớp tuổi gần 70 và và sống tại Saigon trong 34 năm. Những bạn lớn hơn tôi vài tuổi và nhũng bạn gốc "Bắc trước năm mươi tư" mới biết tên đường cũ như tôi, các bạn khác ráng mà tìm các tên trong trang sau cùng ! Không phải tôi bị "tây hóa" nên không chịu dùng tên Việt Nam, nhưng các tên đường cũ đả khắc sâu vào trí nhớ tuổi thơ của tôi, hơn nửa lúc trẻ tôi hay tìm tòi trong tự điển Larousse coi ông nầy là ai mà họ đặt tên đường, sau thế hệ của chúng tôi, ít còn ai nhớ đến tên những con đường Sài Gòn năm xưa…

Mẹ tôi có thuê một cyclo để đi làm và đưa tôi đi học tại trường Chasseloup, "Chú Ba Xích Lô" mỗi ngày chạy ra phía nhà ga Sài Gòn theo đường Colonel Boudonnet, sau khi qua rạp hát Aristo, nay là New World Hotel, quẹo trái qua đường Chemin des Dames và băng qua đường Lacote (chớ không phải Lacotte, Moïse Lacote là cựu Trưởng Ban Hành Chánh vùng Gia Định và Giám Đốc Thuế Vụ Nam Kỳ vào năm 1896) hoặc theo đưòng Amiral Roze (người đã từng tấn công Nam Hàn) để đi thẳng tới đường Gia Long, tên của đường La Grandière vào khoảng ấy (Đề Đốc Pierre De La Grandière thay thế Đề Đốc Bonard là một trong những Thống Đốc đầu tiên của Nam Kỳ, Ông tự động đi chiếm xứ Cambodge năm 1863 mà không có lệnh của Hoàng Đế Napoléon III và cũng chính Ông đã chiếm ba tỉnh miền Tây năm 1867 làm cho Cụ Thống Tướng Phan Thanh Giản phải đầu hàng và sau đó tự vận, dưới thời Đề Đốc De La Grandière Sài Gòn phát triển mạnh mẻ).

Chú Ba Xích Lô xuyên qua vườn "Bờ Rô" để có bóng mát rồi ra đường Larégnère, sau nầy là đường Đoàn Thị Điểm. Tôi không biết tại sao người ta kêu công viên đó bằng tên ấy, có thể là phiên âm của chữ "préau (sân lót gạch) nhưng theo học giả Trần Văn Xướng thì do Ông "Moreau", tên của người quản thủ Pháp đầu tiên chăm nom vườn nầy; thuở trước các người lớn tuổi còn gọi là "vườn Ông Thượng", có thể là vì trước kia Tả Quân Lê Văn Duyệt là người tạo ra vườn nầy. Dưới thời Pháp thuộc vườn "Bờ Rô" nằm trong khu đất của dinh Thống Đốc nhưng vào năm 1869 Phó Đề Đốc Hector Ohier, người thay thế Đề Đốc De La Grandière, cắt chia đất và tặng thành phố vườn nầy mang tên Parc Maurice Long. Mười năm sau đường Miss Cavell được tạo ra, lúc đó mang tên rue de la Pépinière, để biệt lập với dinh Thống Đốc mà sau nầy là Palais Norodom và sau 1954 trở thành Dinh Độc Lập rồi Dinh Thống Nhứt sau 1975. Cũng có thể tên "Ông Thượng" là Ông Ohier, có tên đường dưới chợ cũ, nhưng tới đời tôi chỉ gọi vườn đó là "vườn Bờ Rổ", sau nầy mang tên vườn Tao Đàn.

Ra vườn Bờ Rô gặp đường Chasseloup-Laubat rồi đi thẳng trên đường Larégnère, sau đó tới đường Testard: hai tên nầy ở gần nhau cũng đúng vì Trung Tá Bộ Binh Jules Testard và Thiếu Úy Hải Quân Etienne Larégnère, 31 tuổi (chớ không phải Lareynière hay Laraignère) tử vong cùng một trận đánh ác liệt tại Đồn Kỳ Hòa, ở vùng trường đua Phú Thọ, giữa lực lượng của Thống Tướng Nguyễn Tri Phương và Đô Đôc Victor Charner năm 1861. Ai cũng biết đường Chasseloup-Laubat, một đường chiến lược rất dài đi từ Chợ Lớn, từ đường 11è R.I.C (Régiment d'Infanterie Coloniale) đến Thị Nghè, sau 1955 đường nầy đổi tên là Hồng Thập Tự, trên đường này có trụ sở Hội Hồng Thập Tự Việt Nam.

Đi thẳng đến đường Testard, chú Ba quẹo mặt và bỏ tôi xuống ở góc đường Barbé vì học sinh vào trường Chasseloup bằng cửa sau. Góc đường nầy sẽ liên hệ nhiều với tôi sau nầy khi tôi trở thành sinh viên y-khoa. Đường Barbé (chớ không phải Barbet ) có từ lâu và mang tên của Đại Úy Nicolas Barbé thuộc Sư Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến Pháp bị Ông Trương Định cho tên Nguyễn Văn Sất ám sát vào năm 1860 gần chùa Khải Tường, nơi vua Minh Mạng sanh ra năm 1791 lúc Nguyễn Ánh chạy lọan vào miền nam để tránh anh em Tây Sơn. Chùa nầy do Nguyễn Ánh sau khi trở thành vua Gia Long ra lệnh xây cất để tạ ơn Phật Trời đã che chở cho con trai là Nguyễn Phúc Đàm (vua Minh Mạng sau nầy), sau đó chùa được lập làm đồn chống Pháp nên bị lính pháp phá dẹp hồi 1880, pho tượng Phật hiện còn lưu niệm trong Viện Bảo Tàng Sài Gòn, trong Sở Thú. Trên nền chùa bỏ hoang nầy về sau có cất lên một biệt thự lầu lớn kiểu Âu-châu tại số 28 đường Testard mà Bà Bác Sĩ Henriette Bùi (con gái thứ ba của Ông Bùi Quang Chiêu) mướn lại của người chủ là một luật sư người Pháp làm dưỡng đường sản-phụ khoa vào thập niên 1940. Ông Bùi Quang Chiêu (1872-1945) là kỹ sư canh nông Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp bên Pháp năm 1897 và bị Trần Văn Giàu (phong trào Việt Minh) ám sát cùng ba người con trai vào tháng 9 năm 1945. Còn Bà Henriette Bùi Quang Chiêu sanh năm 1906 là người đàn bà Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp y-khoa bác sĩ tại Paris năm 1929, nay Bà đã 103 tuổi và hiện còn minh mẩn và sống tại ngoại ô Paris:

Bà kể lại rằng vào năm 1943 nhà nầy được bán lại cho một người Do Thái tên là David chủ của nhiều biệt thự tại Sài Gòn; vào đầu năm 1945 chánh phủ Pháp trưng dụng nhà nầy và cho Bà thuê một biệt thự khác ở đưởng Blancsubé để dời dưỡng đường đến đấy. Tháng 3 năm 1945 Nhựt đảo chánh Pháp và tịch thu căn villa nầy, và khi Pháp trở lại thì trao cho Viện Đại Học Sài Gòn để rồi năm 1947 nơi nầy trở thành chi nhánh của Đại Học Y-Dược Khoa Hà Nội rồi năm 1954 thành Đại Học Y-Dược Khoa Saigon, nơi tôi được đào tạo trong sáu năm với GS Phạm Biểu Tâm làm Khoa Trưởng. Nơi đầy kỷ niệm nầy nay là Bảo Tàng chứng tích chiến tranh.

Lớn lên tôi đi xe đạp về một mình nhưng thích đi theo đường Testard hơn vì có bóng mát dưới hàng cây me, song song với đường Richaud (sau đổi lại đường Phan Đình Phùng) và thường ghé biệt thự số 6 đường Eyriaud des Vergnes (sau là Trương Minh Giảng) chơi với một bạn học cùng lơp nhứt là vào mùa các cây trứng cá có trái. Ông Etienne Richaud là một Toàn Quyền Đông Dương hồi cuối thế kỷ XIX, còn Ông Alfred Eyriaud Des Vergnes người gốc Châteauroux là Kỹ Sư Trưởng Nha Công Chánh Nam kỳ (Cochinchine), Ông là một thần đồng tốt nghiệp trường Polytechnique tại Paris lúc 17 tuổi sau đó học trường Ponts et Chaussées, ra lệnh lấp kinh Charner, tạo hệ thống cống dài 7 km, cất 12 cầu theo "Kinh Tàu" (Arroyo chinois nối liền với rạch Bến Nghé chảy ra sông Sài Gòn). Ông Eyriaud Des Vergnes là người đầu tiên có ý lập ra đường sắt tại Việt Nam chạy lên Cambodge nhưng kế hoạch không thành, về sau nhờ Kỹ Sư Thévenet Giám Đốc Nha Công Chánh Nam Kỳ và sự hỗ trợ của Cố Vấn chánh phủ Paul Blanchy mà Việt Nam có đường sắt đầu tiên đi từ Sài Gòn đến Mỹ Tho năm 1885. Hai người nầy cũng có tên đường và sau 1955 đổi lại là Tú Xương (Thévenet) và Hai Bà Trưng (Paul Blanchy).

Sau khi qua đường Pierre Flandin (tên của một "đứa con" của Sài Gòn tuy sanh tại vùng Vaucluse và tử trận tại Noyon, tỉnh Oise, miền bắc nước Pháp vào năm 1917), đến cuối đường gặp rạp hát Nam Quang (nay vẫn còn), tôi quẹo trái ra đường Verdun (khoảng đó tên là đường Thái Lập Thành), đến ngã sáu Sài Gòn thì tôi lại đi qua đường Frère Louis để về nhà bằng đường d'Ypres cho vắng xe. Đường nhỏ nầy ở sau "Mả Lá Gẫm", đúng hơn là của Ông Mathieu Lê Văn Gẫm, có bức tượng trong nhà thờ Huyện Sỹ, tử đạo thời vua Thiệu Trị vì bị hành hình lối năm 1847, mả đó nay vẫn còn nguyên tuy bị che khuất, và Ypres là tên một thành phố nhỏ bên vương quốc Bỉ, như thành phố Dixmude, nơi đã xẩy ra những trận đánh lớn hồi Đệ Nhứt Thế Chiến.

Đi xích lô mỗi ngày như vậy hoài cũng chán nên tôi thường đề nghị với Chú Ba đi về bằng ngả khác, thuở ấy đường phố ít xe hơn bây giờ vì Sài Gòn và Chợ Lớn không hơn một triệu dân cư. Tôi thích nhứt đi về nhà qua chợ Sài Gòn : Chú Ba tránh đường Mac Mahon (sau 1952 đoạn nầy lấy tên De Lattre de Tassigny và sau đó là Công Lý), đi đường Barbé và một đoạn đường Chasseloup-Laubat, rồi quẹo trái qua đường Miss Cavell với hàng cây cao bên hông Cercle Sportif Saigonnais (tên không phải viết Cawell hay Cavel : Edith Cavell là một nữ y-tá người Anh bị quân Đức xử bắn tại Bỉ vào năm 1915 lúc 50 tuổi vì giúp tù binh Anh, Bỉ và Pháp trốn qua Hòa Lan) để trổ ra đường Aviateur Garros rồi xuống chợ Sài Gòn, nơi bán nhiều trái cây (Roland Garros là phi công Pháp đầu tiên bay xuyên biển Méditerranée hồi 1913 và tử trận năm 1918).

Rồi cứ đi theo mãi đường d'Espagne (sau là Lê Thánh Tôn) vì vào 1859 quân lính Tây-Ban-Nha dưới quyền chỉ huy cua các Đề Đốc Pháp đóng tại đó) để về Ngã Sáu (Phù Đổng) rồi về Colonel Boudonnet bằng ngã Amiral Roze. Đặc biệt Sài Gòn có rất nhiều tên đường mang tên các trận đánh thời Đệ Nhứt Thế Chiến (Boulevard de la Somme, Chemin des Dames, đường Verdun, đường Arras, đường Champagne, đường Dixmude, đường Douaumont, Quai de la Marne….) và tên các đề đốc Pháp vì dưới thời các vua Minh Mạng và Tự Đức tất cả quân Pháp đến Việt Nam bằng tàu thủy mà hai vị có tiếng nhứt là Charner và Bonard. Đô Đốc Léopold Victor Charner người vùng Bretagne, gốc Thụy Sĩ là Tổng Tư Lệnh Lực Lượng Hải Quân Pháp tại Đông Nam Á, ngưòi đã chiếm Nam Kỳ, còn Đề Đốc Adolphe Bonard (chớ không phải Bonnard ) là Thống Đốc đầu tiên của Nam Kỳ do hoàng đế Napoléon III bổ nhiệm vào năm 1861 dưói thời vua Tự Đức.
Vào cuối thế kỷ XIX kinh rộng nhứt của Sài Gòn là "Kinh Lớn" hay "Kinh Charner" đi từ sông Sài Gòn đến Tòa Thị Xã, có hai đường dọc hai bên : đường chạy xuống bờ sông là đường Rigault de Genouilly, đường chạy lên là đường Charner. Vì mùi hôi thúi người Pháp lấp kinh lại sau nhiều năm bàn cãi và khi "đường Kinh Lấp" thành lập thì đương nhiên lấy tên Boulevard Charner vào năm 1861 nhưng Ba tôi vẫn gọi là đường Kinh Lấp vào những năm 1930. Trước đó, có một kinh dẫn nước sình lầy chảy ra Kinh Tàu từ chợ Bến Thành (người Pháp gọi là Les Halles Centrales), theo Học Giả Vương Hồng Sển vì gần rạch Bến Nghé và gần Thành Gia Định, kinh đó mang tên kinh Gallimard. Thiếu Tá công binh Léon Gallimard có dự trận đánh Kỳ Hòa, và đào kinh nầy vào năm 1861 theo lệnh của Đô Đốc Charner. Kinh nầy sau khi lấp lại theo ý kiến của kỹ sư Thiếu Tá Bovet năm 1867 lấy tên là Đại Lộ Bonard, vì thế đường nầy mới rộng lớn như ngày nay. Lúc lấp kinh và bến đò họ thành lập một công trường lớn, đó là "Bùng Binh" trước chợ Bến Thành mà người Pháp gọi là Place Eugène Cuniac, tên của một Thị Trưởng Sài Gòn, nay vẫn còn tên Công Trường Quách Thị Trang, một nữ sinh thiệt mạng lúc biểu tình dưới thời Ngô Đình Diệm năm 1963. Trước Tòa Thị Xã, ở góc đường Charner và Bonard cũng có một bùng binh nhỏ với nước phun lên tên là Place Francis Garnier để tưởng nhớ đến một sĩ quan hải quân trẻ tuổi phiêu lưu trên đất bắc và tử thương tại Hà Nội hồi 1873. Nhiều đường khác củng do lấp kinh mà ra như Boulevard de La Somme (rạch Cầu Sấu, sau nầy là đại lộ Hàm Nghi), đường Tổng Đốc Phương (hay Đỗ Hữu Phương), đường Pellerin (tên của một Giám Mục đã bênh vực công giáo Việt Nam nhưng khuyên lầm Đề Đốc Rigault De Genouilly lúc tấn công Đà Nẳng vào 1858) sau nầy đường Pellerin lấy tên là Pasteur, trên đường này có Viện Pasteur.

Đường mà tôi thích nhứt, sang trọng nhứt và có tiếng nhứt Sài Gòn là đường Catinat, có trước khi người Pháp đến và mang tên một thuyền lớn đã bắn đại bác vào Đà Nẵng (chớ không phải tên của một Đề Đốc như nhiều người tưởng, thuyền "Le Catinat" lấy tên của Thống Chế Nicolas de Catinat, sống hồi thế kỷ XVII dưới thời Louis XIV). Nơi đó có rất nhiều tiệm sang trọng, đường phố sạch sẽ và có nhiều "Ông Tây" ngồi uống cà phê tại khách sạn Continental, lúc đó chưa có tiệm Givral và nơi đó là Nhà Thuốc Tây Solirène, thay thế Pharmacie Centrale. Sau nầy có thêm tiệm Brodard ở gốc đường Catinat và Carabelli, tên của một Nghị Viên thành phố. Tôi cũng có dịp vô nhà sách Albert Portail (nay vẫn còn dười tên Xuân Thu từ 1955) và đi dạo trong Passage Eden vì trong cùng có rạp hát Eden, rạp nầy và rạp Majestic ở cuối đường Catinat là hai rạp chiếu bóng sang nhứt Sài Gòn vào thuở đó; đi chơi vậy chớ có tiền đâu mà mua đồ, nhiều lắm thì lấy vài tấm hình mà các ông phó nhòm chụp dạo lúc đi trước "Nhà Hát Tây", cất theo kiểu Opéra bên Paris.

Đường Catinat là đường tráng nhựa đầu tiên của Sài Gòn, khi mới tráng nguời ta kêu là đường "Keo Su" dài tới Nhà Thờ Đức Bà; qua công trường Pigneau de Béhaine trước Bưu Điện có bức tượng Ông "Cha Cả" hay Evêque d'Adran dẫn Hoàng Tử Cảnh ra trình diện Louis XVI tại Versailles. Sau khi qua khỏi đường Norodom thì đường Catinat lấy tên của Cố Vấn chánh phủ và Nghị Viên Thị Xã Sài Gòn Blancsubé và tiếp theo công trường Maréchal Joffre với tượng đài chiến si tử vong trong Đệ Nhứt Thế Chiến là đưòng Garcerie với những hàng cây cao, sau nầy mang tên Duy Tân và công trường Quốc Tế hay "Hồ Con Rùa".

Ba tôi có nhiều bạn người Tàu và thừờng vô Chợ Lớn chơi bằng xe lửa điện (tramway) mà người ta thường gọi là "xe lửa giữa" vì chạy giửa đường Gallieni, tới trạm gare de Nancy thì bạn của Ba tôi lên xe lửa đi cùng vì ở gần thành Ô Ma (Camp des Mares, sau nầy là Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia). Tôi còn nhớ xe lửa giữa đó, với ghế cây theo kiểu của Métro xưa bên Paris, chạy thẳng theo đường Gallieni nối liền Sài Gòn với Chợ Lớn. Ba tôi nói lúc trứớc nơi đây toàn là đất hoang và sình lầy, sau khi lấp bưng thành đường đất gồ ghề rồi khi Ba tôi xuống Sài Gòn học vào năm 1928 thì đường mới được tráng nhựa và năm sau điện giăng giữa chia con đường làm hai chiều, một bên chạy lên một bên chạy xuống, đường rầy xe điện đặt trung tâm đại lộ, đến năm 1953 mãn hạn giao kèo khai thác mới dẹp. Đường nầy mang tên của Thống Chế lừng danh Joseph Gallieni chết năm 1916 nhưng phục vụ ngoài Bắc lúc còn Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh và sách vở ghi công Ông về tổ chức hành chánh tại Đông Dương. Tên của Ông viết với chữ "e" chớ không phải với chữ "é" vì là người gốc Ý Đại Lợi.

Xe điện chạy thẳng vô đường rue des Marins, qua khu Đại Thế Giới nay là khu Cát Tường và đường Jaccario (vì lúc trước pháo hạm "Le Jaccario" đậu gần đó trên "Kinh Tàu" hay Arroyo chinois trong Chợ Lớn, và chắc lính thủy lên bờ nhiều nên mới gọi là rue des Marins), ở góc đường có vũ trường Arc-En-Ciel, nay vẫn là nhà hàng và khách sạn Arc-En Ciel, đến đường Tổng Đốc Phương thì quẹo qua trái mới đến Bưu Điện Chợ Lớn, nhà ga cuối cùng là Gare Rodier, tại Kinh Tàu.

Lúc còn ở đường Colonel Boudonnet tôi có nhiều bạn ở khu nhà thờ Huyện Sỹ và thường vô phía sau nhà thờ bắn "dằng thung" trên mấy cây soài nên bị "Ông Từ" rượt nhiều lần ! Ngoài đường Frères Guillerault trước nhà thờ, còn có đường Duranton và đường Léon Combes mà sau nầy đổi tên là Sương Nguyệt "Ánh". Trung Sĩ Léon Combes là một đứa con của Sài Gòn ở Giồng Ông Tố bên Cát Lái tử trận năm 1917 tại Craonne, thuộc tỉnh Aisne vùng Picardie phía Bắc Paris. Tôi nhớ, vì học "trường tây" nên tôi thắc mắc và tự hỏi Bà nào mà mang họ Sương mà tôi tìm hoài trong sách vở không thấy ? Sau nầy tham khảo mới biết đó là tên bút hiệu của Bà Nguyễn Thị Ngọc Khuê (có sách nói là Nguyễn Xuân Khuê), con gái thứ tư của cụ Nguyễn Đình Chiểu, người đàn bà đầu tiên làm Chủ Bút báo "Nữ Giới Chung" cho phụ nữ hồi 1918. Tuần báo nầy còn tên là Fémina Annamite và tòa soạn ở 13 đường Taberd, trong sách kể là Sương Nguyệt ANH (=Góa phụ Nguyệt Anh), nhưng tại sao hồi 1955 họ đổi tên đường Léon Combes thành Sương Nguyệt ÁNH ?

Về sau, gia đình tôi dọn về Chợ Lớn ở đường Lacaze, nay vẫn là đường Nguyễn Tri Phương, nổi tiếng vì "Mì La Cai", đường mang tên của Đô Đốc Lucien Lacaze, Bộ Trưởng Bộ Hải Quân từ 1915 đến 1917 hồi Đệ Nhứt Thế Chiến, nhưng chúng tôi ở khúc trên, gần gốc đường Pavie (nay là Lý Thái Tổ chớ không phải đường 3 tháng 2 vì đường nầy mới có vào lối 1957, lúc trước là trại lính) dẫn lên trường đua Phú Thọ. Khúc dưới đường mang tên ông Auguste Pavie (lừng danh trên đất Lào) đặc biệt rộng lớn và rất dài, có nhiều cây và bên trong có đường dành cho xích lô và xe đạp. Nếu đi từ Ngã Bảy xuống công trường Khải Định, từ giữa đường nầy đến đường Frédéric Drouhet sẻ thấy những biệt thự mà "Chú Hoả" cất cho con cháu ở (tên thường gọi của Jean-Baptiste Hui Bôn Hoả một triệu phú người Tàu tham gia với chánh quyền tặng thành phố Sài Gòn Policlinique Déjean De La Bâtie, tên của một bác sĩ tận tụy lo cho người Việt Nam, ngoài đường Bonard, sau nầy trở thành Bệnh Viện Đô-Thành), sau 1954 các nhà nầy dành cho Ủy Hội Kiểm Soát Quốc Tế Đình Chiến ở và khúc đường nầy gọi là đường Hui Bôn Hoả.

Lúc đó đường Pavie có xe nhà binh Pháp chạy nhiều vì có thành lính gần đó và tại khu đường Cây Mai, trước khi tới Phú Lâm. Khu đất từ đường Lacaze đến đường Ducos là đồng mả, đường hẻm tôi ở trước một mả đá lớn, mới phá hồi tháng 11 năm 2004 : đó là mả có từ thế kỷ thứ XVIII của một người đàn bà lối 50 tuổi và quan tài thứ nhì chắc là của một người đàn ông, chỉ có vài nữ trang chớ không có vàng bạc chôn theo như người ta tưởng.

Từ đường Lacaze đi ra trường Chasseloup Laubat xa hơn, tôi phải đạp xe xuống Ngã Bảy, quẹo trái qua đường Général Lizé, rồi đạp thẳng hoài, qua khỏi đường Verdun đường nấy lấy tên Legrand De La Liraye. Qua khỏi trường nữ sinh Gia Long (hồi xưa gọi là Collège des Jeunes Filles Annamites) và đến tận trường Marie Curie mới quẹo xuống đường Barbé. Đường Général Lizé là một đường chiến lược rất dài lúc trước gọi là đường Hai Mươi, đi từ Ngã Bảy Chợ Lớn, nối dài đường Pierre Pasquier, đến đường Albert Premier trên Dakao, lấy tên của Trung Tướng Lucien Lizé, xuất thân từ trường Polytechnique, Paris, Tư Lệnh Pháo Binh chiến trường Ý tử trận hồi 1918, có phục vụ bên Việt Nam lúc còn Đại Tá, còn Legrand De La Liraye là một trong những linh mục thông ngôn cho Đề Đốc Rigaud De Genouilly và trở thành Thanh Tra phụ trách về các hồ sơ giưã người việt và chánh quyền bảo hộ. Sau 1954 đường nầy đổi thành đường Phan Thanh Giản, một vị anh hùng sáng suốt và can đảm của Việt Nam. Tiếc thay sau 1975 không còn đường nào trên mảnh đất Việt Nam mang tên anh hùng dân tộc nầy, cũng như không còn đường vào mang tên Lê Văn Duyệt và cũng không còn trường học nào mang tên Petrus Ký ! Cho tới nay tôi chưa thấy một học giả việt nam nào giỏi hơn Petrus Trương Vĩnh Ký, tuy vài "Sử Gia" buộc tội vị nầy nhiều điều vô lý, họ quên rằng công lao lớn nhứt của Ông Petrus Ký là truyền bá cho dân chúng sử dụng chữ quốc ngữ có từ Alexandre de Rhodes vào thế kỷ XVII thay thế chữ Nôm khó học và khó viết. Tôi nghe nói ở Vĩnh Long hiện nay có một trường học mang tên Phan Thanh Giản và vào tháng 11 năm 2008 rạp chiếu bóng Nguyễn Văn Hảo đường Trần Hưng Đạo tại Sài Gòn đang hát tuồng "Tả Quân Lê Văn Duyệt", đó là điều đáng mừng vì những vị anh hùng các triều nhà Nguyễn phải được hồi phục.

Hồi thời Pháp thuộc cũng có những tên đường mang tên những anh hùng hay nhân tài Việt Nam như đường Paulus Của (Đốc Phủ Sứ Hùynh Tịnh Của) trên Dakao, đường Tổng Đốc Phương (Đổ Hữu Phương) trong Chợ Lớn, đường Phủ Kiệt (Đốc Phủ Sứ Trần Văn Kiệt là Nghị Viên thành phố trên 25 năm), Hùynh Quan Tiên, Nguyễn Văn Đưởm trên Tân Định (cà hai là Nghị Viên Thuộc Địa và Nghị Viên Thành Phố), Nguyễn Tấn Nghiệm (Nghị Viên), và Trương Minh Ký, một trong những Nghị Viên đầu tiên của thành phố, ông nầy tên thật là Trương Minh Ngôn cháu bốn đời của Trương Minh Giảng, được ông Trương Vĩnh Ký đem về nuôi và đổi tên, cho đi Pháp học và là một trong 7 người sáng lập viên ra Trường Thông Ngôn (Ecole des Interprètes) nằm trong Tòa Án, nhờ làm thông dịch viên lúc Traité de Patenôtre năm 1884 nên được vô quốc tịch Pháp, người mất lúc 55 tuổi vì bệnh lao phổi.

Vị anh hùng Đại Úy phi công của quân đội Pháp, xuất thân từ trường Võ Bị Saint-Cyr và là cựu sĩ quan Lê Dương mang tên Đỗ Hữu Vị có tên trên một đường từ bùng binh chợ Bến Thành đến đường Charner, trước đó đường nầy mang tên Hamelin sau nầy đổi lại là Huỳnh Thúc Kháng. Đại Úy Vị là con thứ năm của Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương, sau khi học trung học tại trường nổi danh Janson-De Sailly tại Paris, nhập học vô trường Saint-Cyr vào năm 1904. Trung Úy bên Bắc Phi, ông gia nhập vào binh chủng Không Quân vừa thành lập; bị thương nặng Đại Úy Vị từ chối giải ngũ và trở về đơn vị Lê Dương và tử thương tại mặt trận tỉnh Somme năm 1916. Hài cốt được người anh cả là Đại Tá Đỗ Hữu Chấn đem về chôn cất trong nghĩa trang gia đình tại Chợ Lớn.

Nay Sài Gòn mất nhiều di tích ngày xưa, vì chiến tranh và vì sự thay đổi thời cuộc, tôi tiếc nhứt là hồi tháng ba năm 1983 đã san bằng "Lăng Cha Cả", có từ 1799 để lập một công trường mà chả thấy ai ngồi …. Hai người ngọai quốc đã ảnh hưởng Việt Nam nhiều nhứt là Alexandre de Rhodes va Pierre Joseph Pigneau de Béhaine, được dân Việt Nam biết dưới tên Bá Đa Lộc hay Evèque d'Adran, người đã giúp Nguyễn Ánh lên ngôi, đi với Hoàng Tử Nguyễn Phúc Cảnh qua triều đình vua Louis XVI để ký Hiệp Ước Versailles năm 1787. Tên thật là Pigneau, sau đó thêm vô sau tên ấp Béhaine của làng Origny-en-Thiérache mà gia đình có phần đất, thuộc tỉnh Aisne, trong vùng Picardie ở miền bắc nước Pháp. Vua Gia Long cất một ngôi nhà ở số 180 đường Richaud cho Bá Đa Lộc (nay vẩn là Tòa Tổng Giám Mục đường Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3) và đọc điếu văn khi người mất năm 1799. Mộ ông người Sài Gòn gọi là Lăng Cha Cả là một trong những di tìch xưa nhứt của Sài Gòn "ở Gia Định" vào thời Gia Long, sau nầy ở trước trại Phi Long trên Tân Sơn Nhứt. Cốt của Cha Pigneau de Behaine được đem về Páp năm 1983 chôn trong nhà thờ Séminaire des Missions Etrangères, rue du Bac tại quận XV Paris. Tôi có viếng thăm nhà kỷ niệm cua Cha Pierre Joseph Pigneau de Béhaine, ở làng Origny-en-Thiérache, trở thành từ năm 1953 "Musée Monseigneur Pigneau de Béhaine" và sau khi xem xong tâm hồn tôi thả về dĩ vãng của một Việt Nam oai hùng tranh đấu cả ngàn năm để giử biên cưong …

Tôi cũng có dịp thăm viếng nhiều di tích của xứ Pháp từ thời Trung Cổ, nhiều lâu đài của Âu Châu và Nga Sô có từ thế kỷ XV, luôn cả những ngôi mộ bên Ai Cập có trước nền văn hóa của Hy Lạp và tiếc rằng xứ tôi không biết giữ gìn những kho tàng quý giá của lịch sử.

--------------------------------


Những tên đường Sài Gòn trong bài theo thời cuộc:

Thời pháp thuộc ----- Sau 1954 ----- Sau 1975

Albert Premier ----- Đinh Tiên Hoàng ----- Đinh Tiên Hoàng
Amiral Roze ----- Trương Công Định ----- Trương Định
Armand Rousseau, Jean-Jacques Rousseau ----- Trần Hoàng Quân ----- Nguyễn Chí Thanh
Arras ----- Cống Qùynh ----- Cống Qùynh
Aviateur Garros, Rolland Garros ----- Thủ Khoa Huân ----- Thủ Khoa Huân
Barbé ----- Lê Qúy Đôn ----- Lê Qúy Đôn
Blancsubé, rue Catinat prolongée ----- Duy Tân ----- Phạm Ngọc Thạch
Bonard ----- Lê Lợi ----- Lê Lợi
Carabelli ----- Nguyễn Thiệp ----- Nguyễn Thiệp
Catinat ----- Tư Do ----- Đồng Khởi
Champagne ----- Yên Đỗ ----- Lý Chính Thắng
Charner ----- Nguyễn Huệ ----- Nguyễn Huệ
Chasseloup Laubat ----- Hồng Thập Tự ----- Nguyễn Thi Minh Khai
Chemin des Dames ----- Nguyễn Phi ----- Lê Anh Xuân
Colonel Boudonnet ----- Lê Lai ----- Lê Lai
Dixmude ----- Đề Thám ----- Đề Thám
Đỗ Hữu Vị, Hamelin ----- Huỳnh Thúc Kháng ----- Huỳnh Thúc Kháng
Douaumont ----- Cô Giang ----- Cô Giang
Ducos ----- Triệu Đà ----- Ngô Quyền
Duranton ----- Bùi Thị Xuân ----- Bùi Thị Xuân
Espagne ----- Lê Thánh Tôn ----- Lê Thánh Tôn
Eyriaud Des Vergnes ----- Trương Minh Giảng ----- Trần Quốc Thảo
Frédéric Drouhet ----- Hùng Vương ----- Hùng Vương
Frère Louis ----- Võ Tánh ----- Nguyễn Trãi
Frères Guillerault ----- Bùi Chu ----- Tôn Thất Tùng
Gallieni, rue des Marins ----- Trần Hưng Đạo, Đồng Khánh ----- Trần Hưng Đạo
Garcerie ----- Duy Tân ----- Phạm Ngọc Thạch
Général Lizé ----- Phan Thanh Giản ----- Điện Biên Phủ
Georges Guynemer ----- Võ Di Nguy ----- Hồ Tùng Mậu
Huỳnh Quan Tiên ----- Hồ Hảo Hớn ----- Hồ Hảo Hớn
Jaccario ----- Tản Đà ----- Tản Đà
Jauréguiberry ----- Ngô Thời Nhiệm ----- Ngô Thời Nhiệm
La Grandière ----- Gia Long ----- Lý Tự Trọng
Lacaze ----- Nguyễn Tri Phương ----- Nguyễn Tri Phương
Lacote ----- Phạm Hồng Thái ----- Phạm Hồng Thái
Larégnère ----- Đoàn Thị Điểm ----- Trương Định
Legrand De La Liraye ----- Phan Thanh Giản ----- Điện Biên Phủ
Léon Combes ----- Sương Nguyệt Ánh ----- Sương Nguyệt Anh
Mac Mahon, De Lattre De Tassigny, Gal De Gaulle ----- Công Lý ----- Nam Kỳ khởi nghĩa
Marins ----- Đồng Khánh ----- Trần Hưng Đạo
Miss Cavell ----- Huyền Trân Công Chúa ----- Huyền Trân Công Chúa
Nancy ----- Cộng Hòa ----- Nguyễn Văn Cừ
Nguyễn Tấn Nghiệm, rue de Cầu Kho ----- Phát Diệm ----- Trần Đình Xu
Nguyễn Văn Đưởm ----- Nguyễn Văn Đưởm ----- Nguyễn Văn Nghĩa
Ohier ----- Tôn Thất Thiệp ----- Tôn Thất Thiệp
Paul Blanchy ----- Hai Bà Trưng ----- Hai Bà Trưng
Pavie, Hui Bôn Hoả ----- Lý Thái Tổ ----- Lý Thái Tổ
Pellerin ----- Pasteur ----- Pasteur
Phan Thanh Giản ----- Ngô Tùng Châu ----- Lê Thị Riêng
Pierre Flandin ----- Bà Huyện Thanh Quan ----- Bà Huyện Thanh Quan
Pierre Pasquier ----- Minh Mạng ----- Ngô Gia Tự
Place Eugène Cuniac ----- C.Trường Quách Thị Trang ----- C.Trường Quách Thị Trang
Place Maréchal Joffre ----- Công Trường Quốc Tế ----- Hồ con Rùa
Richaud ----- Phan Đình Phùng ----- Nguyễn Đình Chiểu
Somme ----- Hàm Nghi ----- Hàm Nghi
Testard ----- Trần Qúy Cáp ----- Võ Văn Tần
Thévenet ----- Tú Xương ----- Tú Xương
Tổng Đốc Phương ----- Tổng Đốc Phương ----- Châu Văn Liêm
Trương Minh Ký, Lacant ----- Trương Minh Ký ----- Nguyễn Thị Diệu
Verdun,Thái Lập Thành, Gal Chanson,Nguyễn Văn Thinh ----- Lê Văn Duyệt ----- Cách mạng tháng 8
Ypres ----- Nguyễn Văn Tráng ----- Nguyễn Văn Tráng
11è R.I.C ----- Nguyễn Hoàng ----- Trần Phú

BS Trần Ngọc Quang
Paris, Mùa hè 2009
Post Reply