Sổ Tay Thường Dân

Post Reply
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Sổ Tay Thường Dân

Post by uncle_vinh »

Vinh Danh Cách Mạng
Tưởng Năng Tiến (Danlambao)

Từ đó đến nay đã gần hai phần ba thế kỷ trôi qua, thời gian đủ dài để mọi người dân bị “nhồi sọ” nhuần nhuyễn hai chữ “cách mạng” nên đều (hồn nhiên) gọi bọn cướp ngày bằng mỹ từ này: cách mạng tháng tám, cách mạng mùa thu, chính quyền cách mạng, chính phủ cách mạng, chủ nghĩa cách mạng, văn hóa cách mạng, văn công cách mạng, anh hùng cách mạng, truyền thống cách mạng, sách báo cách mạng, thơ văn cách mạng...

Bao giờ mà lũ “ngụy cách mạng” chưa bị điểm đúng mặt, gọi đúng tên (ác độc, bất nhân, bất tín, bất nghĩa, nói một đằng làm một nẻo, vừa đánh trống vừa ăn cướp) thì chúng vẫn còn có thể tác yêu tác quái - đất nước này...

*
“Cách mạng cũng hay đấy chứ! Đem mà cách cái mạng mẹ kiếp của lũ chúng nó đi.”
(AQ chính truyện, Lỗ Tấn)

Tôi đọc Thư gửi bạn ta của Bùi Bảo Trúc hàng ngày. Trên Thời Báo hôm 16-8-2013, ông viết (có đoạn) như sau:

“Tờ Pháp luật ở trong nước vừa đăng một bản tin rất kỳ lạ: một thanh niên ở tỉnh Quảng Nam, sau một chầu ăn nhậu với bạn bè, đã xông vào một cư xá, định hiếp dâm một cô giáo, nhưng bị cô giáo chống cự dữ dội nên đương sự không thực hiện được ý định...

Đương sự sau đó bị bắt giữ, bị truy tố ra tòa và bị tòa phạt 3 năm tù. Đương sự kháng cáo, xin được giảm án và tòa sau khi xét lại hồ sơ, đã giảm bản án 3 năm tù xuống còn 2 năm... lý do... vì gia đình của Sơn ‘có công với cách mạng.’

Cách mạng gì mà kỳ quá vậy?

Trong khi cả nước đang nô nức chuẩn bị kỷ niệm cuộc Cách mạng tháng Tám, và chào mừng ngày Quốc khánh 2 tháng 9 mà cái ông ký giả này lại đi hỏi ngang một câu (nghe) “kỳ quá vậy” khiến cho ai cũng phải cảm thấy - ít/nhiều - ái ngại. Nhưng khách quan mà nói thì cái vẫn thường được mệnh danh, hay giả danh, là cách mạng (ở ta) quả nhiên có kỳ cục thiệt, và kỳ cục lắm, ở khắp mọi mặt - chớ chả riêng chi cái “khâu” pháp luật.

Cũng trên tờ Thời báo, số thượng dẫn, nhà báo Đoàn Dự còn sưu tập được đôi điều kỳ cục (khác) về cách mưu sinh bằng ... “nghề bán máu”. Xin trích dẫn một đoạn ngắn:

“Cùng đường mới phải đến đây... Đó là câu nói của một người đàn ông đội cái mũ cáu bẩn, ngồi lúp xúp trên hành lang để chờ đến lượt mình. Ông cho biết ông quê ở ngoài Bắc (Nam Định), gia đình vào đây 4 người gồm hai vợ chồng ông và 2 đứa con lớn, còn 2 đứa nhỏ thì gửi bà nội ở ngoài quê, đi học.

Cả gia đình thuê một căn nhà nhỏ xíu có gác gỗ ở Thủ Đức. Hai con đi làm công nhân, vợ chồng ông bán rau cỏ ở chợ, chắt chiu sống cũng tạm được. Nhưng đùng một cái, vợ ông bị bệnh ung thư vú, tiền dành dụm cũng hết, bà nội ở quê gọi điện thoại vào giục gửi tiền ra nuôi hai đứa nhỏ. Bí quá, ông đành giấu vợ con, lên Sài Gòn tìm đến Bệnh viện Chợ Rẫy hỏi thủ tục để xin bán máu.

Phía sau ông là một cô gái mảnh dẻ, có vẻ như sinh viên nhưng nước da men mét có lẽ do thiếu ăn, cũng đang hỏi han về giá cả bán máu...

Giá 250cc máu là 140.000 đồng, nhưng thực ra họ không được hưởng toàn bộ số tiền đó. Anh Nguyễn Văn Hùng, người vừa đi bán máu về, giải thích: ‘Chúng tôi phải chi riêng cho các nhân viên giám định để họ viết giấy chứng nhận mình đủ sức khỏe, máu tốt, không có bệnh cần phải đề phòng. Ngoài ra, còn tiền ăn uống, tàu xe đi về v.v... Thế nên mỗi 250cc máu chúng tôi chỉ còn lại được khoảng 90.000 đồng là cùng.’”

Ôi tưởng gì chớ tiền “bôi trơn” thì ở đâu mà chả mất. Không mất thêm tiền “cò” đã là may rồi. Và ở xứ mình thì bán máu - xưa nay - vốn chỉ là chuyện nhỏ, và chuyện thường ngày vẫn xảy ra ở huyện:

“Túng thiếu. Mà phải có tiền. Phải sống. Đang loay hoay với kế mưu sinh thì Dương Tường đến. Nào ai ngờ được chính anh chàng lơ ngơ này lại là người giải quyết cho Mặc Lân vấn đề cực kì khó khăn ấy: Đi bán máu...

Lân mừng như người chết đuối vớ được cọc... Tiền tính theo cc còn tem phiếu thì đồng loạt. Mỗi người được lĩnh tem 2 cân đường, 4 cân đậu phụ, 2 kí thịt, 2 hộp sữa. Thế là mất đi một ít màu nhưng túi nằng nặng tiền và tem phiếu. Cho nên những ngày đi bán máu rất vui...

Bán máu êm ả là thế mà nhiều lúc vẫn giật mình. Ví như đang ngồi nhìn cả vào người y tá chờ gọi tên mình thì người ấy bỗng bật ra những cái tên bất ngờ nhất:

Chính Yên!
Phan Kế Bảo!

Phương Nam!

Toàn những người quen. Toàn những trí thức. Ngượng nghịu nhìn nhau. Rồi cũng quen dần. Lương thiện thì rõ ràng là lương thiện rồi. Nhưng nó tố cáo bước đường cùng.” (Bùi Ngọc Tấn. “Thời gian gấp ruổi“. Viết về bè bạn. Fall Church, Virginia: Tiếng Quê Hương, 2006).

Ngoài “những cái tên bất ngờ” kể trên, còn có điều bất ngờ hơn nữa mà rất ít ai để ý: nếu tính từ thời của nhà văn Bùi Ngọc Tấn, tới cái “cô gái rất mảnh dẻ có vẻ như sinh viên” đã có mấy thế hệ người Việt bị dồn đến “bước đường cùng” như thế?

Cách mạng gì mà kỳ quá vậy?

Nó không chỉ kỳ ở cái chuyện bán máu mà còn kỳ ở nhiều vụ đổ máu tùm lum nữa kìa. Xin đơn cử một thí dụ, qua lời giới thiệu trên trang pro&contra về tác phẩm (Luật Hiến pháp và Chính trị học) của cố giáo sư Nguyễn Văn Bông:

“Cuốn sách này sẽ còn phải chờ một thời gian dài, trước khi lại được xuất bản tại Việt Nam. Vì hai lẽ:

Thứ nhất, vì bản thân nội dung của nó. Ra đời gần một nửa thế kỉ trước tại miền Nam Việt Nam thời Đệ nhị Cộng hòa, nền tảng lí thuyết tổ chức một nhà nước dân chủ và pháp quyền mà nó trình bày đối lập sâu sắc với mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa với độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản trước sau vẫn tồn tại trong thực tế và vẫn chế ngự tư duy chính thống.

Thứ hai, tác giả của nó không phải ai khác, chính là Giáo sư Nguyễn Văn Bông, người bị chính quyền cách mạng ám sát ngày 10-11-1971. Lí do để ở thời điểm ấy, Hà Nội quyết định duyệt lệnh giết một giáo sư luật, Viện trưởng Viện Quốc gia Hành chánh tại Sài Gòn, gần đây được bạch hóa trên báo chí Việt Nam với một sự thản nhiên đến lạnh người…

Trong danh sách những nhân vật xuất chúng bị chính quyền cộng sản ám sát hoặc trừ khử trong bóng tối, Nguyễn Văn Bông có nhiều điểm tương đồng với Phạm Quỳnh. Họ đều là những trí tuệ hiếm có, những trí thức có tầm vóc và ảnh hưởng lớn, dấn thân trong trường chính trị cho một nước Việt Nam mới, song họ đều khước từ lựa chọn chủ nghĩa cộng sản...”

Image
Nguồn ảnh: x-cafevn.org/forum

Cách “ám sát” giáo sư Nguyễn Văn Bông, tuy thế, “văn minh” hơn thấy rõ nếu so với kiểu “trừ khử” học giả Phạm Quỳnh của... chính quyền cách mạng:

“Thầy tôi bị giết trước, bị đánh vào đầu bằng xẻng, cuốc, sau đó còn bị bắn bồi thêm 3 phát đạn… Cụ Khôi cũng bị bắn 3 phát... ông Huân hoảng sợ, vùng chạy thì bị bắt lại và bị bắn một phát ngay vào đầu... Cả 3 thi hài bị xô xuống mương rồi vội vàng lấp đất.” (Phạm Tuân. Cái chết của cụ Phạm Quỳnh. Gió O).

Đã có bao nhiêu “thi hài bị xô xuống mương rồi vội vàng lấp đất” (y như thế) trong cuộc Cải cách Ruộng đất ở miền Bắc, và trong cuộc thảm sát vào năm Mậu Thân - ở miền Trung?

Thêm bao nhiêu (triệu) thi hài khác nữa được vùi lấp qua loa, ở cả ba miền, trong hai cuộc kháng chiến (rất thần thánh và cũng rất không cần thiết) vừa qua? Đó là chưa kể vô số những xác người đã vùi sâu trong lòng đại dương, khi đang trốn chạy khỏi (cái) thiên đường cách mạng!

Đ... mẹ, cách mạng gì mà kỳ quá vậy?

Đã thế, theo lời của blogger Bùi Tín: “Giáo sư Hoàng Xuân Phú lại có một khám phá động trời. Trên blog Quê Choa, ông khẳng định Đảng Cộng sản đã vi phạm luật lệ do chính mình đề ra, suốt 68 năm nắm chính quyền, là một đảng chính trị, Đảng CS chưa hề có giấy xin phép, đăng ký hoạt động, cũng chưa được chính quyền cấp giấy khai sinh và quy định thể lệ hoạt động cho nó.

Cả khi nó tự giải thể (giả vờ) và đổi tên gọi – Đảng CS Đông Dương, Đảng Lao Động VN, rồi Đảng CSVN – nó cũng không xin phép, đăng ký với chính quyền, có nghĩa là nó chưa hề thực thi thủ tục luật pháp. Nó là một tổ chức không hợp lệ. Trên thực tế và theo quan điểm luật học, Đảng CS vẫn là một đảng phi pháp, không chính danh.”

Hay nói một cách lãng mạn và nhẹ nhàng hơn, theo ngôn ngữ thi ca của nhà thơ Bùi Hoàng Tám, đây là một cách... vin danh:

“Việc một đại gia đập bỏ ngôi biệt thự cổ trong khuôn viên trị giá 137 tỉ đồng trong sự nuối tiếc chưa kịp nguôi ngoai của nhiều người thì lại có tin, chiếc giường... trị giá 6 tỉ đồng của đại gia Lê Ân đã về đến Việt Nam.

Đó là một trong số 60 chiếc giường thương hiệu Royal Bed của hãng Savoir Beds (Anh), dựa trên thiết kế đặc biệt giành riêng cho Hoàng gia Anh giai đoạn 1640 – 1740. Số giường này được làm để kỷ niệm 60 năm Nữ hoàng Anh Elizabeth tại vị.

"Tôi tìm cách đặt mua không phải để ngủ mà để thế giới biết rằng Việt Nam cũng có nhiều đại gia lắm tiền" – Ông Ân nói…

Còn nhiều việc có thể ‘nhân danh đất nước’ mà có lẽ ông Ân chưa biết, ví như hiện có hàng trăm người Việt Nam lao động bất hợp pháp ở Nga bị bắt giữ đang sống trong cảnh khốn khổ, không có tiền mua vé máy bay về quê. Nếu vì danh dự của đất nước, ông hãy bỏ tiền mua vé cho họ. Khi đó thì ông cứ thỏa mái nhân danh tình yêu đồng bào, lòng tự trọng quốc gia hay… gì gì đó.

Thậm chí, ông có thể giúp các cháu học sinh một vài chiếc cầu tại quê hương Quảng Nam của ông như cầu Dân trí tại Phú Mưa hay cây cầu Dân trí giúp các em đi học hàng ngày vừa khởi công ở Hậu Giang nhờ sự đóng góp của các nhà hảo tâm cả nước.

Còn việc mua giường, nó có gì đó càng thô thiển khi liên tưởng tới việc đất nước được ‘vinh danh’ nhờ… cái giường ngủ của đại gia Lê Ân. Mua giường để vợ chồng ngủ mà cũng ‘vin danh’ đất nước thì quả thật, đất nước bị đem ra lạm dụng đến mức như một sự xúc phạm!”

Phải chi ngay khi những kẻ “vin danh cách mạng” để lạm dụng và xúc phạm đất nước Việt Nam mà chúng cũng bị chỉ mặt đặt tên ngay tức khắc, như ông Lê Ân hôm nay thì đỡ cho cái xứ sở này biết mấy. Từ đó đến nay đã gần hai phần ba thế kỷ trôi qua, thời gian đủ dài để mọi người dân bị “nhồi sọ” nhuần nhuyễn hai chữ “cách mạng” nên đều (hồn nhiên) gọi bọn cướp ngày bằng mỹ từ này: cách mạng tháng tám, cách mạng mùa thu, chính quyền cách mạng, chính phủ cách mạng, chủ nghĩa cách mạng, văn hóa cách mạng, văn công cách mạng, anh hùng cách mạng, truyền thống cách mạng, sách báo cách mạng, thơ văn cách mạng …

Bao giờ mà lũ “ngụy cách mạng” chưa bị điểm đúng mặt, gọi đúng tên (ác độc, bất nhân, bất tín, bất nghĩa, nói một đằng làm một nẻo, vừa đánh trống vừa ăn cướp) thì chúng vẫn còn có thể tác yêu tác quái - đất nước này.


S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
http://danlambaovn.blogspot.com
Last edited by uncle_vinh on 20 May 14, Tue, 3:35 pm, edited 1 time in total.
Do Huynh Ho
Posts: 177
Joined: 17 Oct 05, Mon, 10:06 pm
Location: CN11, Illinois, USA

Re: Sổ Tay Thường Dân

Post by Do Huynh Ho »

Khi người dân vô cảm ngay với thân phận quốc gia, đó là thảm họa
Nguyễn Quang Vinh
Theo BVN


Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nói thế này trong phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày hôm qua: “Dân nào mà không muốn đấu tranh phòng chống tham nhũng?! Hay là người ta chán rồi? Người ta đấu tranh mãi, góp ý mãi, đưa lên báo mãi nhưng không có tác dụng gì? Các đồng chí phải đánh giá cái này đi chứ”.

Ông đã nói đúng thực trạng.

Dân đã quá mất lòng tin vào chính quyền, khi mà nhiều vụ việc tiêu cực, tham nhũng, nhiều vụ việc trái tai gai mắt góp ý lên, trong đó, có vô cùng nhiều ý kiến của các trí thức, các bậc trưởng lão, nhưng đều rơi tõm trong cái mê hồn trận tầng tầng cấp cấp, rối như canh hẹ, nhưng đều không ai giải quyết và xử lý, hoặc nếu không né được, thì xử lý cầm chừng, xử lý chiếu lệ, xử lý bao che, xử lý " chạy án".

Đến như vụ chôn thuốc sâu ở Thanh Hóa, người ta đã đưa ra phạt hành chính như ngầm báo rằng, không có chuyện hình sự ở vụ việc này,thì đúng là lòng dân không sôi lên mới lạ.

Đến như vụ chữa cháy ở Hải Dương, quan to quan nhỏ xoen xoét lên ti vi khen nhau, tụng nhau, dối trá leo lẻo, không ngượng mồm khi mà hàng trăm hộ dân đang sống dở chết dở vì vụ cháy này thì đúng là nhân dân gọi miệng quan như trôn trẻ quả không oan.

Đến như tình hình bệnh vô cảm, lười biếng, quan liêu, hách dịch, vòi vĩnh xảy ra từng giờ từng phút ở các cơ quan quản lý nhà nước, và đi đâu cũng gặp những vị công chức ngồi ườn trên ghế, hờ hững trước công việc, sổ toẹt vào cả nhân cách, đạo đức công chức, căn bệnh ngày càng trở nên trầm kha, lượng công chức vô tích sự nhan nhãn đếm cả năm không hết mà vị Bộ trưởng nội vụ vẫn có thể nói dối chỉ có 1% công chức không hoàn thành nhiệm vụ thì đúng là không còn chỗ nào để bình luận thêm.

Từ cán bộ đến quan các cấp, cứ mở miệng là dối trá, là " tự sướng", chà đạp sự thật, chỉ chăm chăm vơ vét, đến mức hễ nhắc đến lãnh đạo là nhắc đến thói tham lam, như là một thuộc tính, một đặc điểm, thì đúng là kinh khủng, " người ta ăn của dân không từ một thứ gì".

Và quan cách mạng giờ như vua chúa, trụ sở như phủ chúa, xây dựng hoàng tráng, vườn hoa cây cảnh, điều hòa chạy ro ro, ngốn tiền dân cả núi, mơ mơ màng màng như kẻ say thuốc khi nhìn cuộc sống, không thể dùng chữ xa dân nữa mà đã bắt đầu quay lưng với cuộc sống nhân dân mất rồi.
Hàng ngàn, hàng chục ngàn vụ việc nhức nhối không xử lý tới nơi tới chốn, đụng vào là đụng đến cả một rừng quan hệ, móc lấy nhau, dây lấy nhau, nhằng nhịt, cho nên cũng chỉ đùng đoàng vài phát trên trời cho ra vẻ có tấn công tham nhũng tiêu cực rồi im ỉm nằm im, lại ăn, lại hô, lại hét, lại vỗ tay.

Từng mớ, từng rổ, từng đống cấp này hàm kia ở các Bộ, ngồi chơi xơi nước, lượn lờ như ong trên trời,ra luật này luật kia, ra xong bỏ đó, thực hiện hay không là việc của ai khác, của trời của đất, rồi luật chưa thực hiện đã lạc hậu, đã sửa, đã thay, những phát biểu của các vị Thường vụ Quốc hội nghe nghẹn trong cổ, chán ngán, bó tay, bất lực trước một rừng quan chức, công chức không biết làm việc vì ai, cho ai...

Không góp ý, không phản biện, không chê trách thì được khen, góp ý, phản biện, chê trách thì bị nâng lên đặt xuống, thậm chí bị trả thù, hậm hà hậm hực, rồi bị quy kết, làm thế thì người dân dần sẽ vô cảm với thân phận quốc gia, không góp nữa, không màng phê phán nữa, không màng quan tâm nữa, thế thì thảm họa sẽ tới thôi.

Một đất nước dày đặc luật,nghị quyết, chỉ thị, nghị định nhưng rồi cũng bó tay trước những thằng ăn cắp, tham nhũng thì đã tới lúc cần phải hú còi báo động cấp cứu rồi.

Và ai cứu? Lại nhân dân thôi.

(Bauxite Vietnam)
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Sổ Tay Thường Dân

Post by uncle_vinh »

Ngoài cửa McDonald’s
S.T.T.D Tưởng năng Tiến (Danlambao)

Ngày 29 tháng 12 năm 2012, báo Dân Trí đi tin:

Image

“Ban Chấp hành Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước, Quốc hội, Chính Phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Ủy ban Trung ương Mặt trật Tổ quốc Việt Nam đã tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm 40 năm chiến thắng ‘Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không’ (12/1972-12/2012), sự kiện lịch sử trọng đại và kỳ tích có một không hai - biểu tượng chiến thắng của bản lĩnh, trí tuệ và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam...

Đọc diễn văn tại lễ kỷ niệm, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nhấn mạnh, chiến thắng ‘Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không’ là một trong những chiến thắng mang tầm vóc lịch sử ở thế kỷ XX, viết tiếp những trang sử vàng chiến công chói lọi trong lịch sử chống ngoại xâm, giữ nước của dân tộc ta. Chiến thắng đó đã góp phần bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giữ vững thành quả cách mạng; tạo ra cục diện mới để quân và dân ta thực hiện trọn vẹn lời dạy của Bác Hồ kính yêu ‘đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào’; giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước vào mùa Xuân năm 1975.”

Theo cách nói của Phạm Đình Trọng thì đây (chả qua) là một kiểu ăn theo và ăn mày dĩ vãng:

Bộ máy tham nhũng làm cho chính quyền suy yếu, nhân dân oán giận, lòng người li tán. Trong tình thế đó, đưa Hồ Chí Minh ra, đưa những năm tháng đánh giặc hào hùng ra, đưa sự hi sinh to lớn của đồng bào chiến sĩ ra để ru ngủ nhân dân quên đi những nhức nhối hiện tại, để chính quyền tham nhũng núp bóng, ăn theo vinh quang của quá khứ mà tồn tại. Đó là sự ăn mày dĩ vãng!

Nhà văn của chúng ta tuy nói không sai nhưng cũng không hẳn đã hoàn toàn đúng. Giới lãnh đạo ở Việt Nam hiện nay, đôi lúc, cũng có viễn kiến về tương lai đó chớ. Bằng chứng là vào tháng ngày 8 tháng 2 vừa qua, gần như tất cả báo chí trong nước đều hân hoan thông báo:

Sáng 7/2/2014, McDonald’s đã chính thức cắt băng khánh thành nhà hàng đầu tiên tại Việt Nam, ở địa chỉ 2 – 6Bis Điện Biên Phủ, quận 1 (ngay khu vực vòng xoay Điện Biên Phủ - Nguyễn Bỉnh Khiêm thuộc phường Đa Kao). Nhà hàng có 2 tầng, với tổng diện tích hơn 1.300 mét vuông, có sức chứa hơn 350 chỗ ngồi, nằm độc lập trên một khuôn viên rộng gần 3.000 mét vuông.

Cùng lúc, biên tập viên Duc Hanh của AFP cũng có bài viết (“Communist Vietnam gets first taste of the Big Mac”) với đôi câu dẫn nhập – xem chừng – có hơi có đôi chút mỉa mai:

“Bốn thập niên sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, hệ thống thức ăn nhanh khổng lồ McDonald’s của Mỹ đã mở cửa hàng đầu tiên vào hôm thứ Bẩy tại quốc gia cộng sản này, nhằm lôi cuốn lớp trung lưu mới nổi ra khỏi cơm gạo và bún phở.” (Four decades after the Vietnam war ended, US fast-food giant McDonald's opened its first restaurant in the communist country Saturday, aiming to lure a rising middle class away from rice and noodles).

Riêng Báo Mới (số ra cùng ngày) còn có ghi thêm chi tiết, in bằng chữ đậm, về giá cả:

“Giá một chiếc burger cỡ lớn làm nên thương hiệu của McDonald's có tên là Big Mac sẽ có giá 85.000 đồng. Mức giá này tương đương với gần 4 USD, thấp hơn so với tại Mỹ tuy nhiên lại cao hơn so với nhiều nước trong khu vực như Singapore, Indonesia, Philippines hay Malaysia.”

Đã lâu, tôi không có dịp trở lại Á Châu nên không biết giá cả và mức sinh hoạt của các nước trong khu vực ra sao, chỉ xin ghi lại đây vài đoạn ngắn trong bài viết (“Nghiệt Ngã Phận Đời Làm Công Nhân Tối Về Bán Dâm”) của nhà báo Khánh Hoà – đọc được trên tờ Dân Việt, hôm 16 tháng 02 năm 2014 – để rộng đường dư luận:

Rời bỏ quê lên thành phố lập nghiệp với mong ước có một cuộc sống tốt đẹp hơn nhưng nghiệt ngã thay, nhiều bạn trẻ đi làm công nhân đã bị vướng cái vòng luẩn quẩn nơi phố phường hoa lệ là thu không đủ chi. Tiền lương công nhân trung bình khoảng trên dưới 3 triệu đồng/người/tháng dường như là quá ít so với cuộc sống thị thành, nhất là thời gian gần đây, mọi thứ đều tăng giá một cách chóng mặt.

Cũng vì đồng lương eo hẹp mà đa phần công nhân đều phải làm tăng ca, ăn uống dè sẻn, chi tiêu tằn tiện cũng như luôn phải sống trong những căn phòng trọ tồi tàn. Ngoài ra, họ phải gửi con ở những điểm giữ trẻ tự phát với vô vàn những rủi ro, bất hạnh có thể ập xuống bất cứ lúc nào...

Hiện nay, chuyện những người công nhân đi làm phải tăng ca ban đêm đã là rất bình thường, thậm chí nhiều người còn mong mỏi xin được tăng ca, được làm thêm để có thêm thu nhập trang trải cho cuộc sống nhưng vì tình hình kinh tế chung đang trong giai đoạn suy thoái nên nhiều nơi, công ty chỉ hoạt động cầm chừng, có muốn tăng ca cũng không có.

Thế nên, những công nhân này, ban ngày đi làm, chiều tan ca về thì đàn ông lại xách xe đi chạy xe ôm ở mấy ngã ba, ngã tư hòng kiếm thêm vài chục ngàn đồng. Ngoài ra, nhiều người phải nhận hàng về nhà làm thêm ban đêm hoặc đi bốc vác, phụ bồi bàn ở các quán ăn, quán cà phê ban đêm với mong muốn kiếm thêm chút đỉnh. Riêng với những công nhân nữ, dù biết là tội lỗi, là nhục nhã nhưng nhiều người vì miếng cơm, manh áo vẫn nhắm mắt đưa chân để làm cái việc nhơ nhuốc là đi bán dâm, như một cứu cánh duy nhất trong cơn cùng quẫn...

Theo Sở Lao động thương binh và xã hội TP.HCM, hiện nay, trên địa bàn TP.HCM có 10 KCN và 3 KCX đang hoạt động với khoảng gần 300.000 lao động, số lượng công nhân đến từ các tỉnh thành khác chiếm đa số. Mức lương trung bình khoảng 3 triệu đồng/tháng; nhưng mức chi tiêu lại khá tốn kém khiến nhiều công nhân rất chật vật với cuộc sống.

Với tiền lương hàng ngày chỉ vừa vặn đủ mua một cái bánh Big Mac thì bán máu, hay bán dâm để kiếm thêm thu nhập là chuyện... chẳng đặng đừng. Điều may mắn, và an ủi – nghĩ cho cùng – là thân xác mình vẫn còn... có giá. Cuộc đời, như thế, mới chỉ “sắp” đến bước đường cùng thôi. Đến tận bước đường cùng, không còn gì để bán được nữa, mới phải đành phải sống nhờ vào lòng từ thiện của kẻ khác – theo như lời kêu gọi (“Thân Nhân Liệt Sĩ Khó Khăn Cần Giúp Đỡ”) đọc được vào ngày 13 tháng 2 năm 2014, cũng trên diễn đàn Dân Việt:

Đó là gia đình bà Hà Thị Thủy, 74 tuổi, trú tại thôn Cái Tắt, xã An Đồng (An Dương, thành phố Hải Phòng)... Thời kỳ chiến tranh, bà là thanh niên xung phong. Bà gặp và kết hôn cùng ông Nguyễn Văn Viền là bộ đội.

Ông Viền hy sinh năm 1968, khi con gái vừa mới sinh. Bản thân bà là người ngoại tỉnh, gia cảnh lại neo đơn không có anh em ruột thịt, bà phải gửi con nhỏ về quê Nam Định cho mẹ già chăm sóc. Bà lăn lộn kiếm tiền gửi về cho mẹ nuôi con gái.

Mọi sự giúp đỡ xin gửi về bà Hà Thị Thủy hoặc bà Vũ Thị Hải - Trưởng văn phòng đại diện Báo Nông Thôn Ngày Nay tại Hải Phòng - số 31 Điện Biên Phủ, quận Hồng Bàng, ĐT: 0903212789; hoặc Báo Nông Thôn Ngày Nay - 13 Thụy Khuê, Hà Nội, tài khoản 1506311002117, chi nhánh Ngân hàng NNPTNT Tây Hồ, Hà Nội.

Sự hiện diện của hệ thống McDonald's - Điện Biên Phủ giữa Sài Gòn, với giá gần 4 Mỹ Kim một cái Big Mac, khiến cho hoàn cảnh của bà Hà Thị Thủy không chỉ thêm rõ nét khốn cùng mà còn pha lẫn thêm ít nhiều cay đắng. Cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước và quyết tâm “đánh cho Mỹ cút” đã lấy đi mạng sống của ông chồng, cùng những năm tháng thanh xuân của bà Thuỷ – rõ ràng – không cần thiết gì cho lắm.

Ngày trước những thiếu nữ Thanh Niên Xung Phong như bà Thuỷ được hệ thống truyền thông của nhà nước CHXHCN Việt Nam ưu ái mệnh danh là “những bông hoa trong tuyến lửa,” “những bông hoa nở giữa chiến trường” hay “những cành lan trong rừng cháy.” Giờ đây, cánh hoa tàn trong ngõ hẹp hay quả chanh khô Hà Thị Thuỷ (theo như cách nói của đời thường) chỉ còn là một con số không tròn trĩnh: không không chế độ, nghĩa là không lợi tức, nên phải kêu gọi đến lòng bác ái của tha nhân.

Mai hậu, nếu Đảng CS vẫn tiếp tục cầm quyền, con cháu của bà Thủy (e) cũng khó mà có dịp bước chân vào một tiệm ăn, để thưởng thức một cái Big Mac giá 4 M.K. Số tiền này bằng lương hàng ngày của một công nhân và (dám) tương đương với trợ cấp hàng tháng cho một gia đình có thân nhân là liệt sĩ.

Đã có lúc đảng và Nhà Nước thiết tha kêu gọi toàn dân hy sinh mọi thứ để “chống Mỹ cứu nước” và “đánh cho Mỹ cút” nhưng khi làm hoà (và làm tiền) với kẻ thù thì đây lại là chuyện riêng, chỉ dành cho của một giới người: tầng lớp trung lưu khá giả mới (new rising middle wealthy class) mà phần lớn đều là C.C.C.C (con cháu các cụ) hết.

Thiên Đường Xã Hội Chủ Nghĩa, có lẽ, chỉ mở rộng cửa cho giới người này. Kỳ dư, dân chúng đều phải đứng ngoài. Không chỉ ngoài cửa thiên đường mà còn ngoài cửa cả McDonald’s.

S.T.T.D Tưởng năng Tiến
danlambaovn.blogspot.com
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Sổ Tay Thường Dân

Post by uncle_vinh »

Nói vậy nhưng không phải vậy
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
2013-11-15


Trong cuốn Hồi Ký Vi Đức Hồi, tác giả đã nhắc đi nhắc lại gần đến cỡ chục lần rằng đảng luôn luôn nói một đằng, làm một nẻo:

Chẳng hạn đảng nói “xây dựng xã hội không có bóc lột”thì chính những đảng viên của đảng lại là những người trực tiếp bóc lột người ;đảng nói “một xã hội có nền dân chủ gấp triệu lần xã hội tư bản”thì chính xã hội ta đang mất dân chủ trầm trọng;đảng nói “đảng bao gồm những người tiên phong nhất, tiên tiến nhất” nhưng thực tế thì đảng đầ̀y rẫy những người xấu xa nhất, đó là những kẻ lười lao động, ăn bám, đục khoét tiền bạc của nhân dân;đảng nói “học thuyết Mác-Lê Nin và xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là đỉnh cao của nhân loại”, vậy tại sao lại sụp đổ ?Tại sao nước ta ngày nay lại trở lại thể chế của xã hội tư bản?

Trong tháng này, trang blog của RFA, vừa có thêm hai cây viết mới: Hoàng Ngọc Tuấn và Nguyễn Lân Thắng. Cả hai đều là những khuôn mặt khả ái và quen thuộc với cư dân mạng. Người sau (xem hình) trông trẻ trung hơn và (xem chừng) cũng vui vẻ hơn kẻ trước:

Trở về nhà trên xe của bộ Công an sau 18 tiếng "làm việc" cùng cơ quan an ninh, tôi đã có một cuộc tranh luận nho nhỏ ngoài biên bản với các chiến sỹ an ninh về tự do ngôn luận, tự do biểu đạt, chuyện trao Tuyên bố 258... Chuyện thì cũng vui vui thôi, nhưng đến cuối cùng chị T cục A67 nhắc nhẹ: "...Anh lưu ý, nói là một chuyện, làm là một chuyện khác nhé..."

Lời dặn dò cuối cùng cứ văng vẳng trong đầu làm tôi suy nghĩ mãi, không biết lời dặn này có phải là có ý cho phép tôi cứ nói đi, còn làm nên dè chừng...??! Có một câu chuyện vui thế này: "Cả thế giới đều phải kiêng nể người Mỹ vì người Mỹ đã nói là làm. Nhưng người Mỹ lại sợ người Nhật vì người Nhật làm rồi mới nói. Người Nhật lại sợ Trung Quốc vì Trung Quốc không nói mà làm. Nhưng rồi tất cả chúng nó sợ ai??? Xin thưa, sợ nhất Việt Nam vì Việt Nam nói một đằng làm một nẻo…"


Tôi thực lòng không dám dở trò láu cá, mới (giả lả) khen Nguyễn Lân Thắng là “trẻ trung, vui vẻ” rồi lại liền buông lời than phiền hay chỉ trích (này nọ) nhưng “câu chuyện vui” mà ông bạn đồng nghiệp vừa kể – nói nào ngay – cái kết luận nghe không vui gì lắm: Việt Nam nói một đằng làm một nẻo…"

-Ủa, chớ người Việt nào mà kỳ cục dữ vậy cha nội? Phải chỉ rõ: ai, đứa nào, con nào, thằng ào, lũ khốn nạn nào chuyên môn “nói một đằng làm một nẻo” mới được, chớ nói năng lạng quạng – ba chớp ba nháng – như vậy (nghe) sao dễ mích lòng quá hà!

Tui cũng (làm bộ) hỏi cho vui vậy thôi, chớ câu hỏi dễ ẹc này, đã có người đã trả lời (xong xả) lâu rồi. Trong cuốn Hồi Ký Vi Đức Hồi, tác giả đã nhắc đi nhắc lại gần đến cỡ chục lần rằng đảng luôn luôn nói một đằng, làm một nẻo:

Chẳng hạn đảng nói “xây dựng xã hội không có bóc lột”thì chính những đảng viên của đảng lại là những người trực tiếp bóc lột người ;đảng nói “một xã hội có nền dân chủ gấp triệu lần xã hội tư bản”thì chính xã hội ta đang mất dân chủ trầm trọng;đảng nói “đảng bao gồm những người tiên phong nhất, tiên tiến nhất” nhưng thực tế thì đảng đầy rẫy những người xấu xa nhất, đó là những kẻ lười lao động, ăn bám,đục khoét tiền bạc của nhân dân;đảng nói “học thuyết Mác-Lê Nin và xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là đỉnh cao của nhân loại”, vậy tại sao lại sụp đổ ?Tại sao nước ta ngày nay lại trở lại thể chế của xã hội tư bản?

Sau đó, tất nhiên, ông Vi Đức Hồi phải đi tù (nghe đâu) gần cả chục năm vì tội “ tuyên truyền chống nhà nước.” Tù là phải. Đương sự không chỉ đụng tới Đảng (quang vinh) mà còn chạm tới Bác (anh minh) của toàn thể đồng bào:

Năm 1946 khi đến thăm lớp cán bộ bình dân học vụ đầu tiên do nhóm ông Nguyễn Hữu Ðang tổ chức, ông Hồ chỉ trích những người viết sách vỡ lòng trong đó có câu mẫu "Nó ở tù" để dạy ghép vần có nguyên âm u:"Các đồng chí không còn thí dụ nào hay hơn sao mà dùng cái thí dụ ác thế ? Làm hại đầu óc trẻ con. Xin tìm câu khác".

Mẹ tôi đi dự lớp huấn luyện này. Bà thường kể câu chuyện trên cho mọi người nghe như một thí dụ về lòng nhân ái cách mạng. Trong kháng chiến chống Pháp, ông Hồ gặp một tù binh co ro trong cái rét cắt da của rừng Việt Bắc. Ông cởi tấm áo trấn thủ của ông cho anh ta, và câu chuyện lan truyền trong tù binh như một huyền thoại.
(Vũ Thư Hiên. Đêm Giữa Ban Ngày, 2nded. Fall Church,Virginia: Tiếng Quê Hương, 2008).

Và cái huyền thoại này, vẫn theo nhà văn Vũ Thư Hiên, đã chết trong lòng thân mẫu của ông – không lâu– sau đó:

Trong những ngày này, mẹ tôi kể, bà nghĩ đến thần tượng của bà rất nhiều. Ðêm đêm bà ngồi một mình trong căn nhà vắng lặng. Bà đã tin ông Hồ Chí Minh. Bà đã tin ông lắm lắm. Còn hơn tin, bà sùng kính ông, người anh cả của cách mạng, lãnh tụ của bà. Bức chân dung cỡ 18x24 ông Hồ Chí Minh tặng bà với dòng chữ "Thân ái tặng thím Huỳnh" trước ngày ông lên đường dự hội nghị Fontainebleau năm 1946 được bà gìn giữ như của gia bảo...

Nhiều người khuyên bà hãy cầu cứu ông Hồ. Dù muốn dù không Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ vẫn còn phải nể ông, họ nói. Mọi người tin chắc ông không biết việc xảy ra. Nếu ông biết, ông không bao giờ để xảy ra chuyện nồi da nấu thịt thế này. Vài năm nay, do sức khỏe kém, ông Hồ không còn trực tiếp điều khiển công việc đất nước.

Mẹ tôi không tin. Bà cho rằng để khởi lên một vụ lớn như thế này, Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ không thể không hỏi ý kiến ông Hồ, ông không thể không biết. Vụ bắt bớ chỉ được tiến hành một khi có sự đồng ý của chủ tịch nước... Chính do những suy nghĩ như vậy mà mẹ tôi không nghe theo lời khuyên của bè bạn. Bà không xin gặp, không thèm viết một dòng nào cho ông Hồ Chí Minh
(V.T.H. Sđd, 22 -24).

Với nhiều người khác thì huyền thoại về lòng nhân ái của Bác được trực nhận dễ dàng hơn, dù họ bao giờ chưa được tiếp cận với ông, và sinh sống cách ông cả hàng ngàn cây số:

Năm 1954, sau chín năm ê chề mòn mỏi vì chiến tranh, thấy hòa bình ai nấy nhẹ nhõm; nếu có kẻ nào lúc đó mà xếp đặt một cuộc tàn sát nữa, kẻ ấy tất gan đồng dạ sắt. Thì Hồ Chí Minh đã xếp đặt cuộc tàn sát ngay vào thời kỳ ấy.

Năm 1968, sau hăm ba năm chiến tranh thảm khốc, nghe nói hòa bình mọi người mừng rơn. Nghĩ tới hàng triệu người đã bỏ thây trong thời gian qua, ai cũng tưởng làm người Việt Nam mà có kẻ dám để ý nghĩ mon men đến chiến tranh nữa, thì kẻ ấy mặt dầy mày dạn, tán tận lương tâm. Thì Hồ Chí Minh chính đang xếp đặt thêm một cuộc chiến. [(Võ Phiến. “Bắt Trẻ Đồng Xanh”.
(Trích Tuyển Tập Võ Phiến, 2nded. Westminsre, CA: Người Việt, 2006)].

Sự “tán tận lương tâm” của Bác cũng có thể được nhận ra khi nhìn vào những “huyền thoại” khác. Ông Tôn Thất Tần (người mà “Jean Valjean gọi bằng cụ,”) là một trong những huyền thoại loại này – theo nhà văn Phạm Đình Trọng:

Hai mươi bảy tuổi, anh thanh niên Tôn Thất Tần đã trở thành người tù Cộng sản chỉ vì anh bộc lộ chính kiến phản đối Hiệp định 6.3.1946 do Hồ Chí Minh kí với Pháp thỏa thuận cho quân Pháp vào miền Bắc Việt Nam thay thế quân Tàu Tưởng giải giáp quân Nhật. Năm mươi chín tuổi, ông già Tôn Thất Tần mới bước ra khỏi nhà tù Cộng sản.

Cuộc đời người tù của cụ Tôn Thất Tần kéo dài qua đời ba đảng Mác xít: Đảng Cộng sản Đông Dương, đảng Lao động Việt Nam, đảng Cộng sản Việt Nam. 96 năm có mặt trên cõi đời thì một phần ba cuộc đời cụ Tôn Thất Tần, 32 năm (1946 - 1977), để lại trong nhà tù Cộng sản.

Hồ Chí Minh là chủ tịch nước VNDCCH từ năm 1945 cho đến năm 1969. Trong suốt thời gian này Tôn Thất Tần bị giam giữ không một phiên toà xét xử. Trong hai mươi bốn năm đó Bác cất “lòng nhân ái cách mạng” của mình ở đâu?

Có thể ông Hồ Chí Minh không biết ông Tôn Thất Tần là ai nhưng chắc chắn ông phải biết ông Nguyễn Hữu Đang, ông Hoàng Minh Chính, ông Đặng Kim Giang, ông Vũ Đình Huỳnh.. chớ? Lòng nhân ái của Bác ở đâu trước bản án 15 tù và 15 năm quản chế mà chế độ của ông dành cho “chú” Đang với cái tội danh (gián điệp) mà đứa trẻ lên ba ở miền Bắc VN cũng biết là ngụy tạo!

Lòng nhân ái cách mạng của Bác để đâu khi các đồng chí của mình: chú Chính, chú Giang, chú Huỳnh ... đang nằm sống dở chết dở hàng chục năm trong trại giam Hoả Lò vì “đi theo chủ nghĩa xét lại hiện đại và làm tình báo cho nước ngoài” ?

Trước khi người cộng sản xuất hiện, ngôn ngữ Việt đã có sẵn thành ngữ “nói một đằng làm một nẻo” nhưng phải đợi cho đến khi Hồ Chí Minh đặt cho nền móng thì nó mới có thể dần trở thành truyền thống (cho cả đảng) và kéo dài cho mãi đến hôm nay – theo như lời chị T. cục A67 nhắc nhẹ: "...Anh lưu ý, nói là một chuyện, làm là một chuyện khác nhé..."

Chính cái “khác” này mà chế độ dân chủ (hơn vạn lần tư bản) ở VN đã tạo ra những bản án 32 năm dành cho Tôn Thất Tần, 33 năm dành cho người tù Trương Văn Sương, 37 năm cho người tù Nguyễn Hữu Cầu, và hơn chục năm cho người tù Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần ...với những tội danh hoàn toàn bịa đặt!

Và để biết thêm về hệ thống trại giam hiện nay, ở Việt Nam, xin đọc qua vài đoạn bài trong bài viết mới nhất (“Có hay không việc Trần Hùynh Duy Thức bị tra tấn?") của ông Trần Văn Huỳnh, sau chuyến đi thăm tù vào hôm 8 tháng 11 vừa qua:

... tôi cùng mấy đứa con, cháu lên đường đi Xuyên Mộc mà lòng đầy bất an sau khi nhận được tin Thức bị ép cung bằng roi điện. Trong tâm trạng lo lắng, tôi nghĩ đến những tình huống xấu nhất. Tôi cố trấn an mình bằng những suy nghĩ tích cực, nhưng sau đó nỗi lo vẫn quay trở lại vì tôi nhận ra trong điều kiện thiếu thốn, khan hiếm thông tin thì mọi khả năng đều có thể xảy đến…

Chia tay Thức ra về, nhìn dáng Thức bước đi lầm lũi vào sâu bên trong trại mà không quay lại vẫy tay chào gia đình như mọi khi, tôi chợt thấy không yên trong lòng. Xâu chuỗi lại những sự việc khác lạ của buổi thăm gặp lần này, có cơ sở để nghi ngờ rằng đang có một sự việc bất thường diễn ra đối với Thức. Đằng sau sự việc này dường như có uẩn khúc mà hiện giờ tôi chưa khẳng định được. Thông tin gia đình nhận được hôm trước liệu có là đúng, và Thức đang chịu một áp lực nên không thể báo cho gia đình?

Tôi chỉ mong câu trả lời của Thức là sự thật để tôi biết con mình được bình yên. Việc Thức bị biệt giam đã là sự trấn áp về mặt tinh thần rất lớn. Nay nếu Thức tiếp tục bị tra tấn về thể xác thì người cha già này không thể chịu đựng nổi.

Tôi không muốn nuôi trong lòng những mối nghi ngờ. Nhưng khi mà sự minh bạch trong thông tin là không có, trong khi có quá nhiều những việc không thể hiểu được đã xảy ra với con tôi, thật tôi không biết phải tin vào điều gì nữa.

Thay mặt gia đình, xin chân thành cám ơn sự nhiệt tình sẵn sàng giúp đỡ của mọi người với Thức và gia đình tôi. Có mọi người tôi cảm thấy không cô đơn và có thêm sức mạnh để tiếp tục con đường đòi tự do cho Thức.


Tháng 11/2013
Trần Văn Huỳnh
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Sổ Tay Thường Dân

Post by uncle_vinh »

Những Người Viết Láo & Những Người Viết Báo
Fri, 08/01/2014
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Bây giờ các anh phải sống theo cách khác cái lũ già hèn nhát chúng tôi, phải học chia một véc-bờ khác : Tôi đếch sợ anh, anh đếch sợ tôi, chúng ta đếch sợ chúng nó...
Nguyễn Tuân



Tôi giao thiệp hơi (quá) rộng. Trong số mấy triệu người Việt tị nạn đang sống rải rác khắp nơi trên thế giới, tôi quen biết dám chừng hơn nửa. Còn với qúi đồng hương hay đồng bào (ở quê nhà) chắc cũng khoảng một phần mười, nghĩa là cỡ đâu mười triệu – bất kể thành phần xã hội, giới tính, sắc tộc, tôn giáo, hay chính kiến ... – anh Tiêu Dao Bảo Cự và chị Phạm Thị Bạch Yến là hai trong (vô số) những người này.

Người trông xa, ma trông gần. Bạn bè, tất nhiên, cũng không nên thân cận quá. Bởi vậy, khi nghe tin anh Bảo Cự và chị Bạch Yến sẽ ghé Mỹ (chơi) độ ... nửa năm, tôi “hết hồn hết vía” và “băn khoăn” cả buổi!

Hoa Kỳ không phải là nơi để chơi. Ghé qua sáu ngày e thiếu nhưng ở tới sáu tháng thì sợ là dư. Tôi thực sự lúng túng không biết làm gì khoảng thời gian (dài đến một trăm tám chục ngày) khách ở California.

May mà cả anh Tiêu Dao Bảo Cự lẫn chị Bạch Yến (chắc) đều tuổi Ngọ nên rất “chịu” đi. Trong tập bút ký Gặp Gỡ Trên Đất Mỹ, ông cho biết hai người đã “phiêu lưu” qua mười hai tiểu bang và Washington D.C.

Xin xem qua một đoạn văn tác giả viết về Viện Bảo Tàng Báo chí (Newseum) nơi mà hầu như mọi du khách đến thủ đô nước Mỹ cũng đều đã dừng chân:

“Có một bức tường tưởng niệm các nhà báo trên thế giới đã hi sinh trong khi làm nhiệm vụ, được coi như những anh hùng của nền dân chủ, với tên tuổi và hình ảnh dày đặc từ gần dưới nền lên cho đến tận trần nhà. Nhiều câu nói về sự cao quý của nhà báo và nghề báo ghi trên các bức tường được chọn lọc cẩn thận, đáng suy ngẫm.

Tôi thích nhất các câu: ‘The free press is the cornerstone of democracy,’ ‘Free press, at its best, reveals the truth’ và điều xác tín của Rod Dreher, nhà bình luận báo chí: ‘There are three kinds of people who run toward disaster, not away: cops, firemen and reporters.’ Dĩ nhiên đây phải là báo chí và nhà báo chân chính. Trong thế giới hiện nay, cũng không hiếm các báo chí và nhà báo đi ngược lại thiên chức cao quý của mình...”

Image
Nhà báo là một trong ba loại người chạy đến nơi xảy ra tai
họa chứ không chạy đi. Ảnh và chú thích: TDBC.

Chả hiểu sao cứ mỗi khi nghe nói đến danh xưng “nhà báo chân chính” và “thiên chức cao qúi” của họ là tôi lại nghĩ ngay đến “cung cách tác nghiệp” của những người làm báo ở xứ sở của mình, cùng với một tiếng thở dài – cố nén!

Chớ có người làm báo nào ở Việt Nam chạy đến nơi xẩy ra tai họa không vậy, Trời? Sao không: trong vụ cưỡng chế đất đai ở Văn Giang, hai nhà báo của chúng ta đã có ngay mặt tại hiện trường – và bị công an đánh cho bầm dập, đánh cho tơi tả, “đánh cho chết mẹ mày đi” – dù họ chỉ đến “với tinh thần ủng hộ chủ trương của tỉnh,” và cho công tác “tuyên truyền có định hướng” của nhà nước, chứ không phải để lên tiếng bênh vực cho những nông dân đang bị đẩy vào bước đường cùng.

Toa rập với cường quyền để áp bức lương dân không phải là “sở trường” duy nhất của những người làm báo ở Việt Nam. Họ còn sẵn sàng đánh bóng hay nói theo bất cứ chủ trương hoặc chính sách nào của Nhà Nước – kể cả những chủ trương ngu xuẩn nhất – bằng những lời lẽ hoàn toàn dối trá và trơ trẽn:

Do được hưởng lợi trực tiếp hoặc gián tiếp mà từ hôm đến Đắk Nông, hỏi bất cứ người dân nào người ta đều ủng hộ các dự án về bô-xít, chắc chắn nó sẽ làm thay đổi hẳn bộ mặt tỉnh Đắk Nông trong tương lai.
Từ nhà già làng Điểu Sơn, chúng tôi sang nhà ông Điểu Lônh (Lôi). Nhờ có tiền đền bù đất mấy trăm triệu, ông xây cho con gái, con rể ngôi nhà khang trang lát gạch men bóng lộn, xa lông, tủ chè, ti-vi, quạt điện… làm chúng tôi ngỡ mình đang ngồi ở thành phố chứ không phải là một bon hẻo lánh của người H’Mông. (Nguyễn Hữu Nhàn. Bô-xít Tây Nguyên, Thấy Gì Ghi Nấy).

Làm sao mà “thấy” một buôn làng của người H’Mông ở Đắc Nông được mà “ghi” đại vậy, cha nội? Ông Nguyễn Hữu Nhàn, tuy thế, chưa trơ tráo bằng ông bạn đồng nghiệp Lã Thanh Tùng:

Bauxit của chúng ta khai thác dễ đến nỗi, chỉ cần gạt lớp đất mặt đi (khoảng 0,9 mét) là đến ngay vỉa quặng dày đến 4 mét. Theo các chuyên gia, trữ lượng bauxit của Việt Nam có thể khai thác hàng trăm năm, đem lại lợi nhuận hàng chục tỷ USD… (“Bô-xít Và Những Điều Khác”, Văn nghệ số 44, phát hành ngày 31 tháng 10 năm 2009).

Thiệt là quá đã, và… quá đáng nhưng vẫn chưa đáng tởm bằng cái thói ngậm máu (hay ngậm cứt) phun người của những người làm báo ở xứ sở của tôi:

- Thích Quảng Độ móc nối các tổ chức cực đoan lưu vong ở hải ngoại để dùng “oán trả ơn” bằng cách thông tin vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền, không cho tự do tôn giáo. (Sài Gòn Giải Phóng, ngày 28 tháng 8 năm 2007).

- Ông Thích Quảng Độ, người đứng đầu tổ chức không được các tăng ni, phật tử ở Việt Nam công nhận, là "Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất", chẳng hiểu căn cứ vào đâu mà cho rằng việc khai thác bôxít sẽ dẫn đến "nguy cơ huỷ hoại màu xanh Tây Nguyên và đời sống của người Việt cũng như hàng chục dân tộc ít người". Tiếp theo, ông ta "khẩn cấp báo động công luận thế giới về đại nạn sinh thái Tây Nguyên Quả là không thể hiểu nổi, một vị tu hành đến chức Hoà thượng mà lại làm những việc phản dân hại nước đến vậy. (Công An Nhân Dân, ngày 18 tháng 4 năm 2009).

Rồi sau khi người “người đứng đầu tổ chức không được các tăng ni, phật tử ở Việt Nam công nhận” được đề cử nhận giải Nobel Hoà Bình thì Ban Tuyên Giáo Trung Ương hốt hoảng cho ra ngay một bức công điện (khẩn và mật) nguyên con như thế này đây:

Image
Công điện chỉ đạo đối phó với tình huống Hòa thượng Thích Quảng Độ được trao giải
Nobel Hòabình do ông Nguyễn Thế Kỷ ký ngày 9 tháng 10 năm 2008. Ảnh và chú thich: RFA

Ông Vụ Trưởng Báo Chí hùng hổ lên án là một vị tu sĩ (tay không tấc sắt) là “phản dân, hại nước, đi ngược lại ước nguyện hoà bình, hạnh phúc, tiến bộ của nhân dân Việt Nam...” nhưng trước chuyện lãnh hải bị xâm phạm, và hành vi khiêu khích trắng trợn của ngoại nhân thì ngôn ngữ cũng như thái độ của ôngNguyễn Thế Kỷ lại hoàn toàn khác hẳn:“Sao đã có chủ trương chỉ nói là tàu Trung Quốc lỡ làm đứt cáp thôi, mà có một số báo lại đưa là nó cố tình cắt cáp, để gây ra kích động nhân dân biểu tình.”

Chủ trương của nhà nước không chỉ hèn hạ mà còn bất nhất, cứ sáng đúng, chiều sai, đến trưa lại đúng. Và đây là nét chung của bất cứ chế độ cộng sản nào, theo nhận xét của George Orwell:

“Nhà thờ ở châu Âu thời Trung cổ buộc bạn vào một tín số điều, nhưng ít nhất nó cũng cho phép bạn giữ những tín điều ấy từ lúc lọt lòng cho đến lúc chết. Nó không bao giờ bảo bạn thứ Hai phải tin một điều, thứ Ba lại phải tin vào một điều hoàn toàn khác. Tình hình cũng tương tự như vậy đối với các tín đồ Công giáo, đạo Hindu, đạo Phật, đạo Hồi ngày nay. Chế độ toàn trị hoàn toàn ngược lại. Đặc trưng của nhà nước toàn trị là tuy nó kiểm soát tư tưởng, nhưng nó lại không xác dịnh dứt khoát tư tưởng ấy là gì. Nó đưa ra một số tín điều không được tranh cãi, nhưng các tín điều ấy lại thay đổi hàng ngày. Chế độ cần tín điều vì cần các thần dân phục tùng một cách tuyệt đối, nhưng nó không thể không thay đổi theo các nhu cầu của tầng lớp nắm quyền.”

Tại sao cái loại nhà nước toàn trị có thể “đưa ra một số tín điều không được tranh cãi … nhưng lại thay đổi hàng ngày” mà những người cầm viết vẫn “chịu phục tùng một cách tuyệt đối” như vậy?

Xin thưa, giản dị, chỉ vì họ ... sợ!

Nỗi sợ hãi này đã ám ảnh Nguyễn Tuân cho đến lúc cuối đời:“ Bây giờ các anh phải sống theo cách khác cái lũ già hèn nhát chúng tôi, phải học chia một véc-bờ khác : Tôi đếch sợ anh, anh đếch sợ tôi, chúng ta đếch sợ chúng nó...”


Tuy muộn màng, cuối cùng, ước nguyện của ông đã trở thành hiện thực. Ngày 3 tháng 3 năm 2014, thay mặt sáu mươi bạn đồng nghiệp nhà văn Nguyên Ngọc tuyên bố thành lập Văn Đoàn Độc Lập Việt Nam. Bốn tháng sau, BBC đi tin:

“Hội Nhà báo Độc lập, một tổ chức dân sự mới, vừa tuyên bố thành lập hôm thứ Sáu 4/7... Mục đích của Hội Nhà báo Độc lập được tuyên bố trước hết là: ‘Phản ánh trung thực và sâu sắc những vấn đề nóng bỏng của xã hội và đất nước; Phản biện đối với những chính sách bất hợp lý của nhà nước liên quan đến quản lý xã hội và tự do báo chí và Tổ chức trao đổi, đối thoại với các cấp chính quyền về tự do báo chí và quản lý xã hội khi có điều kiện, đồng thuận với những chính sách, giải pháp hợp lòng dân và có lợi cho đất nước’.

Tổ chức này cũng cam kết ‘Lên tiếng và có hành động cần thiết để bảo vệ những người làm báo vì tiến bộ xã hội, nhưng bị sách nhiễu, bắt bớ, tù đày, khủng bố… Đấu tranh yêu cầu Nhà nước Việt Nam hủy bỏ những điều luật mơ hồ của Bộ Luật Hình sự được dùng để áp chế tự do báo chí như Điều 258, 88…"

Image
Nguồn ảnh:anhbasam.wordpress

Theo dư luận chung thì sự có mặt của Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam là một đáp ứng can đảm và cần thiết trước thời cuộc hay tình thế. Với riêng tôi, đây còn là một đáp ứng tình cảm đã (bị) mất mát từ lâu. Mối hảo cảm mà một người dân miền Nam như tôi vẫn dành cho giới người cầm viết cho đến ... tháng 4 năm 1975!

Tôi không dám kỳ vọng gì nhiều vào những hoạt động của hội, trong tương lai gần, vì biết rằng phần lớn hội viên đang phải sống trong vòng vây của một bầy lang sói. Nhưng chỉ cần đọc Tuyên Bố Đầu Tiên Của Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam Về Việc 6 Ngư Dân Việt Nam Bi Trung Quốc Giam Cầm cũng đủ khiến cho một độc giả bình thường như tôi cảm thấy vô cùng an ủi và ấm lòng khi nhận ra một điều vô cùng giản dị: các anh các chị “đếch sợ chúng nó” nữa.
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Sổ Tay Thường Dân

Post by uncle_vinh »

Những Trận Chiến Bất Nhân
Wed, 08/06/2014 - 05:08 — tuongnangtien



Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

Nguyễn Trãi



“Ngày 21/7 vừa qua, trong cuộc họp của Hội đồng Bảo an diễn ra ở New York, Ngoại trưởng Hà Lan, ông Frans Timmermans đã có bài phát biểu vô cùng xúc động về vụ việc chiếc máy bay MH17 gặp nạn tại miền Đông Ukraine, khiến toàn bộ 298 người thiệt mạng.

Trong suốt bài phát biểu của mình, khóe mắt ông Frans Timmermans luôn chực trào nước mắt khi bày tỏ sự choáng váng, bàng hoàng trước quy trình xử lý thi thể các nạn nhân cũng như hàng loạt những thông tin nhiễu loạn xung quanh vụ MH17.”

Những dòng chữ trên được trích dẫn từ trang Dân Luận, đọc được vào hôm 27 tháng 7 năm 2014, cùng với lời dẫn nhập (hay nói chính xác hơn là nỗi băn khoăn) của ban biên tập:

“Bài phát biểu xúc động của vị chính khách một nước dân chủ phương tây, thể hiện rõ rằng đất nước của họ luôn quan ngại, lo lắng xót xa cho tính mạng người dân của mình. Không giống như tại Việt Nam, tính mạng của người dân không được quan tâm, đảm bảo, luôn bị đe dọa ở khắp nơi ngay cả ở những nơi công quyền, ví dụ như đồn công an. Chúng tôi tự hỏi, liệu các vị nguyên thủ quốc gia Việt Nam sẽ như thế nào nếu có xảy ra tình huống tương tự?”

Câu trả lời cho nghi vấn thượng dẫn, thực ra, đã có sẵn (cũng trên trang Dân Luận) từ hai ngày trước – hôm 25 tháng 7 năm 2014 – qua một đoạn văn ngắn của tác giả Nguyệt Quỳnh:

Từ những phát biểu của ông Chủ tịch nước Trương Tấn Sang như:“ngư dân hãy yên tâm bám biển giữ chủ quyền” đến các phát biểu của Trung tướng Tô Lâm: “Ngư dân là cột mốc sống chủ quyền lãnh hải”, và sau đó báo đài đồng loạt lập lại. Nhưng đến khi tàu hải quân Trung Cộng đuổi bắn những “cột mốc sống” này thì sự im lặng gần như tuyệt đối; không còn một quan chức nào đếm xỉa đến họ nữa. Có thể nói, trong những giờ phút đó, Hà Nội đã lạnh lùng xem bà con ngư dân như những "cột bia xi măng" vô tri vô giác. Khi tàu ngư chính Trung Cộng đâm, đánh, bắt họ thì Hà Nội lặng lẽ coi ngư dân như những "cột gỗ mục" vô giá trị.


Và KHỐN KIẾP không kém là khi có ngư dân nào thoát chết, tả tơi vào bờ thì lại có những buổi lễ trao tặng bằng khen kế tiếp cho những "cột mốc sống dở chết dở" ấy để lại đẩy họ và đẩy thêm các "cột mốc còn sống" khác ra khơi trở lại.


Image
Tàu đánh cá việt nam mang số hiệu QNa 90152 bị tàu Trung quốc đâm chìm khi đang đánh bắt hợp pháp trên vùng biển Hoàng Sa, chủ quyền Việt Nam, chiều 26/5/2014. Nguồn ảnh và chú thích: RFA

Những cột mốc sống, cột bia xi măng, cột gỗ mục ... ở biển Đông – hôm nay – khiến tôi nhớ đến “Những Cọc Tiêu Sống Trên Đèo Đá Đẽo,” trong cuộc chiến vừa qua:

“Sinh ra trong một gia đình nghèo có bảy chị em. Là con cả, ngày ngày Ðinh Thị Thu Hiệp phải lo bắt tép, mò ốc đỡ đần mẹ cha nuôi các em khôn lớn. Ðến tuổi thanh niên, chị theo phong trào ‘Ba sẵn sàng’ xung phong lên đường, nhưng địa phương không duyệt vì thân hình quá nhỏ. Không còn cách nào khác, chị đã viết đơn vào trận tuyến bằng máu với tất cả tình cảm thống thiết để được kết nạp vào đội hình TNXP và được phân công về làm nhiệm vụ ở đèo Ðá Ðẽo.

Ngày đó, đèo Ðá Ðẽo được xem như lằn ranh giữa sự sống và cái chết, là yết hầu của tuyến chi viện chiến lược 15A vào Nam. Từ năm 1967, không quân Mỹ đã thực hiện chiến dịch 97 ngày đêm xóa trắng, vùi lấp đèo Ðá Ðẽo, Ðinh Thị Thu Hiệp đã không ngần ngại bám sát mặt đường từng ngày, từng giờ, đếm từng quả bom rơi, vác từng thùng đạn chạy băng qua bãi bom nổ chậm. Chỉ nặng chưa đầy 40 kg nhưng lúc đó vác trên mình những kiện hàng, thùng đạn vượt bãi bom dài hơn cây số chạy băng đến điểm tập kết an toàn.

Cuối năm 1967, khúc cua 516+300 mái phía tây đèo Ðá Ðẽo thường xuyên trúng bom nổ chậm, nhiều người không có kinh nghiệm tiếp cận bom đã thiệt mạng. Cấp trên giao Ðinh Thị Thu Hiệp chốt giữ trọng điểm nóng đó nhằm bảo đảm thông tuyến nhanh nhất cho xe ra tiền tuyến.

Ngày đầu tiên, một quả bom nổ chậm rơi đúng tim đường. Lập tức chị yêu cầu mọi người tản ra xa, một mình chị vào kích nổ quả bom. Khi công việc hoàn thành, vừa trở ra khoảng 150 m thì bom nổ, chị bị sức ép khiến một tai bị điếc. Một lần khác, một đoàn xe chở hàng ra mặt trận bị ứ lại do vướng bãi bom ở chân đèo Ðá Ðẽo. Mọi người chưa biết làm sao thông tuyến, trong khi tiếng gọi chiến trường đang hết sức cần kíp thì chị Hiệp đã nhanh trí, quyết định biến mình thành cọc tiêu sống đưa đoàn xe 20 chiếc vượt qua bãi bom an toàn...
Sau những thành tích trong chiến tranh, chị vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân vào năm 1972. Hòa bình, chị trở về sống bình dị với ruộng nương, xóm làng...” (Hương Giang. “Cọc Tiêu Sống Trên Đèo Đá Đẽo.” Nhân Dân 7 July 2010.)

Image

Có vô số những chị Đinh Thu Hiệp (khác) đã vùi thây trong bom đạn, hoặc không bao giờ còn có thể “trở về sống bình dị với ruộng nương, xóm làng ...” mà nhà báo Hương Giang không biết hay không ... dám biết.

Các chị bị lãng quên, và chỉ được nhắc đến – với rất nhiều xót sa, cùng với sự trân trọng – bởi một người ngoại cuộc (*) bằng một thiên tiểu luận [Trực Diện Với Cái Chết Và Nỗi Đau: Vấn Đề Thanh Niên Xung Phong Trong Chiến Tranh Việt Nam (1950-1975)] đã được Phương Hoà chuyển ngữ, và đăng thành nhiều kỳ trên diễn đàn talawas. Chúng tôi xin phép ghi lại vài trích đoạn – ngăn ngắn – để rộng đường dư luận, cùng với ước mong được xem đây như một lời tri ân để gửi đến tác giả, cùng dịch giả:

- Đối với những thiếu niên-lính này (thậm chí trong một vài trường hợp là trẻ em-lính), vũ khí chỉ là cuốc chim đơn giản, xẻng lớn và hành trang trí thức ít ỏi mang theo người chỉ là vài năm học sơ cấp ở trường. Họ gặp nhau và chỉ trong mấy ngày là bị đẩy ra tuyến lửa. Không có kiến thức quân sự, tất cả họ đều được huấn luyện tại chỗ như câu khẩu hiệu “Khắc làm, khắc biết” đã tóm ý. Đối với những học sinh nữ ở các thành phố chẳng biết gì ngoài việc cầm bút, tham gia các công việc lặt vặt trong gia đình, hay còn được mẹ nuông chiều và ban đêm vẫn còn sợ ma thì sự hụt hẫng của họ thật dữ dội. Sau khi được tập hợp và biên chế thành đơn vị, những TNXP được nhanh chóng gởi ra tuyến lửa.

- Giống như các đồng nghiệp ở Liên Xô, phụ nữ Việt Nam không những không bị cấm ra mặt trận, mà còn ở ngay chính giữa mặt trận. Các cô gái TNXP trực tiếp tham gia chiến đấu, đặc biệt là trên đường mòn HCM, nơi có sự hoà nhập nhất với quân chủ lực, và với những người trong đội TNXP Giải phóng miền Nam thì chiến đấu là nhiệm vụ chính thức. Như chúng ta thấy, trong phần lớn thời gian, ranh giới giữa bộ đội nơi tiền tuyến và các lực lượng hậu cần không hề tồn tại. Việc lực lượng hậu cần cũng hứng chịu lửa đạn là chuyện bình thường của mọi cuộc chiến, nhưng trường hợp Việt Nam trở nên đặc biệt do một số lý do: độ tuổi tuyển mộ quá trẻ, họ gần như hoàn toàn không được chuẩn bị chút nào, và cách thức quản lý thuần chính trị và quân sự được áp dụng với họ. Sĩ quan trong Quân đội Nhân dân Việt Nam và cựu cán bộ TNXP bị ảnh hưởng nặng nề bởi những đau đớn khủng khiếp thường nhật của các cô gái làm việc cùng họ, hoặc dưới quyền họ, phải chịu đựng. Nhưng tất cả bị tấm màn im lặng phủ kiến, bởi người ta muốn đây phải là cuộc chiến tranh nhân dân.

Sau “cuộc chiến tranh nhân dân” kể trên – nếu sống sót – những cành lan trong rừng cháy, những đoá hoa nhầu nát, hay những quả chanh khô (theo như cách nói của đời thường) sẽ trở thành những con số không tròn trĩnh: không chồng, không con, không nhà, và không chế độ!

Image
Một mái nhà ở “xóm không chồng.” Nguồn ảnh:Báo Mới

Và cái lọai “chiến tranh nhân dân” (bất nhân) này vẫn đang tiếp diễn ở Việt Nam với những ngư dân làm cột mốc sống giữa biển khơi, thay cho những thanh niên xung phong (như cột tiêu sống) trên mọi nẻo đường đầy dẫy bom đạn – giữa thế kỷ trước. Và ai mà “lỡ dại” lên tiếng than phiền về thái độ vô trách nhiệm của những kẻ cầm quyền thì thế nào cũng bị nhốt tù, như trường hợp của nhà báo Tạ Phong Tần:

Đại tá Nguyễn Trọng Huyền- Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy BĐBP tỉnh Phú Yên cho hay: “Thời gian vừa qua, đặc biệt hơn 10 ngày nay, tàu cá TQ xâm phạm nhiều lần trong vùng biển nước ta. Theo thông tin ngư dân báo về, trung bình mỗi ngày vùng biển ngoài khơi từ Đà Nẵng đến quần đảo Trường Sa có từ 120 đến 150, cá biệt có những ngày lên đến hơn 200 tàu cá TQ khai thác trong vùng biển nước ta”.

Cái đau của người Việt Nam là thông tin này do “ngư dân báo về” chớ không phải do Hải quân hay Cảnh sát biển phát hiện. Câu “ngư dân báo về” khiến người đọc hình dung ra bối cảnh lúc đó ngư dân với những chiếc tàu nhỏ bé trang bị thô sơ đang ở ngoài biển xa đối mặt với tàu to đùng tối tân của Trung Quốc, còn lực lượng có chức năng bảo vệ ngư trường, ngư dân và lãnh hải thì ngồi trong bờ… chờ nghe báo cáo.


Tôi không rõ những vị lãnh đạo đất nước Việt Nam hiện nay như qúi ông Chủ Tịch Nước Trương Tấn Sang, ông Trung Tướng Thứ Trưởng Bộ Công An Tô Lâm, hay ông Đại Tá Nguyễn Trọng Huyền có bị vấn đề về não bộ hoặc trí nhớ hay không nhưng tôi biết chắc (chắn) điều này: cái thời mà qúi vị huyễn hoặc và lừa mị để đẩy dân Việt vào chỗ chết (rồi thản nhiên phủi tay) đã qua rồi. Không ai có thể lường gạt mọi người mãi mãi.

Tưởng Năng Tiến

(*) Chú thích của talawas: François Guillemot là chuyên viên nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia (CNRS), phụ trách kho tài liệu Việt Nam tại Viện Nghiên cứu Đông Á (IAO, Lyon, Pháp). Ông lấy bằng tiến sĩ về lịch sử tại Ecole pratique des hautes études (EPHE, Paris) năm 2003. Hiện ông nghiên cứu về những vấn đề văn hoá trong chiến tranh của người Việt, và về chủ nghĩa dân tộc phi cộng sản của người Việt, chẳng hạn như về Đảng Đại Việt. Tiểu luận này được thuyết trình lần đầu tại hội thảo quốc tế, “Bản sắc cơ thể ở Việt Nam: Chuyển hoá và Đa dạng”, tại Ecole normale superieure lettres et sciences humaines, Lyon. Tác giả cảm ơn Christopher E. Goscha, Agathe Larcher, Claire và William J. Duiker, Vatthana Pholsena, Tuong Vu, Edward Miller và Trang Cao đã giúp ông dịch (từ tiếng Pháp sang tiếng Anh) và hiệu đính tiểu luận này để đăng trên Journal of Vietnamese Studies vào mùa thu 2009.


tuongnangtien's blog
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Sổ Tay Thường Dân

Post by uncle_vinh »

Con Ốc, Cái Tăm & Cây Đũa
Wed, 10/15/2014 - 16:47
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Chúng ta đã sản xuất được ốv vít, phải khẳng định như thế.
Bộ Trưởng Vũ Huy Hoàng


Trong tiếng Việt “con ốc” với “con vít ” là một, nếu chúng đều nằm trong thùng đồ nghề sửa xe. Còn trên bàn ăn thì hai con tuyệt nhiên không có liên hệ gì (ráo) với nhau.

Sở dĩ có chuyện hơi rắc rối như vậy bởi con ốc có nguồn gốc từ phương Tây. Khi mới đến Việt Nam, có người thấy mặt (liền) đặt tên nó là “con ốc” vì trông cũng hơi giông giống.

Nhưng ốc có nhiều loại (ốc biển, ốc núi, ốc khe, ốc ao, ốc suối, ốc vườn, ốc ruộng…) với hình dạng và tên gọi khác nhau: ốc dừa, ốc gạo, ốc hương, ốc lác, ốc leng, ốc ma, ốc nhồi, ốc vòi voi, ốc sên, ốc móng tay, ốc bươu vàng, ốc mỡ, ốc đỏ, ốc ngựa, ốc vú nàng, ốc bàn tay, ốc mặt trăng, ốc đụn, ốc tù, ốc trám, ốc bùn, ốc mượn hồn… Ngó bộ cũng lộn xộn dữ nên có kẻ (bèn) gọi nó là con vít – gần như cách phát âm chữ “vis” trong tiếng Pháp.

Tưởng như vậy là êm chuyện nhưng dân Việt Nam, ở vùng biển, không chịu vậy. Mấy chả nghe nói tới con vít là nghĩ ngay đến một loại rùa biển, mang khìa nước dừa để nhậu chơi, chớ không phải là … con ốc.

Do đó – có lúc, và tuỳ nơi – con ốc còn được gọi là con đanh vít, hay đinh vít. Cũng có khi, cho nó chắc ăn, người ta dùng danh từ kép: con ốc - vít.

Việt Báo.VN – số ra ngày 7 tháng 10 năm 2005 – có đăng một một bản tin rất ngắn (và hơi buồn) về ốc:

“Chúng Ta Chưa Tự Làm Ðược Cái Ðinh Vít”

“Mỗi năm kinh phí cho hoạt động NC&PT lên tới 200 triệu USD. Chúng ta cũng đã có trên 1,4 vạn tiến sĩ và 1,6 vạn thạc sĩ. Đây là niềm tự hào bởi con số này cao gấp gần năm lần so với Thái Lan và gần 6 lần so với Malaysia. Nhưng nhìn lại trên góc độ hiệu quả thì thật đáng buồn … dù có hàng chục luận án tiến sĩ về tôi thép và cơ khí nhưng trong nước vẫn chưa tự làm được con ốc cho xe máy, ô tô đạt tiêu chuẩn quốc tế (cứ vặn là trờn ren).”


Mười năm sau, hồi đầu tháng 10 năm nay, Bộ Trưởng Công Thương Vũ Huy Hoàng bất ngờ (và mạnh miệng) tuyên bố: “Chúng ta đã làm được ốc vít.” Thiệt là một thành quả vĩ đại chưa từng thấy.

Cả nước mừng muốn chết luôn! Biến cố lại xẩy ra đúng với dịp lễ mừng 60 năm “Giải Phóng Thủ Đô” nên Đảng và Nhà Nước cho bắn pháo bông ăn mừng quá trời quá đất.

Báo Dân Trí hớn hở loan tin: “Mặc dù 21h đêm nay (10/10), các điểm bắn pháo hoa của Hà Nội mới ‘khai hỏa’, nhưng ngay từ chập tối dòng người đã đổ về những điểm này. Cả biển người chờ đón giây phút hân hoan cùng màn pháo hoa trên bầu trời...”

Ai cũng vui như Tết, trừ blogger Cánh Cò:

Câu nói xuất hiện vào năm 2014, sau hơn ba phần tư thế kỷ ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Gần 40 năm sau khi Sài gòn hoàn toàn giải phóng.

"Con ốc vít" ấy là một sự thật não nề xứng đáng đứng bên cạnh "con tự do" cũng ê chề không kém.

Cái mà cả hệ thống từng rêu rao là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nay đã trần truồng nằm phơi trên các trang báo đảng lẫn báo dân. "Con ốc vít" trở thành best seller trên một thị trường được xem là phát triển ngoạn mục nhất nhì Đông Nam á.

"Con ốc vít" hiền lành, vô hại nay bỗng dưng bị lật lên lật xuống xem xét từng chi tiết. Mà lạ lắm, không thấy chi tiết nào đáng chú ý cả vì nó cũng như hàng tỷ con ốc trong guồng máy kinh tế này, nhưng khi một con trong cái đám hàng tỷ con ấy mang quốc tịch Việt Nam thì sự tự sướng lên tới mức ngất ngây như khuôn mặt ửng hồng của ông bộ trưởng.

Một con ốc vít không phải là tất cả nhưng cũng cho thấy cố gắng không ngừng của nhà nước, rất chú ý tới nền công nghiệp nước nhà.Chỉ có điều, người dân lại tưởng ông Bộ trưởng đánh lừa họ vì không lẽ sau bao nhiêu năm mà chế độ chỉ làm được một con ốc vít?


Coi: thằng chả khó tính dữ hông? Mấy năm trước thì than phiền: “Có trên 1,4 vạn tiến sĩ và 1,6 vạn thạc sĩ... có hàng chục luận án tiến sĩ về tôi thép và cơ khí nhưng trong nước vẫn chưa tự làm được con ốc cho xe máy, ô tô đạt tiêu chuẩn quốc tế (cứ vặn là trờn ren).” Nay thành tích đã đạt được thì lại buông thõng một câu, nghe mà phát chán: “Không lẽ sau bao nhiêu năm mà chế độ chỉ làm được một con ốc vít?”

Được thế thì đã phúc!

Tôi e là bác Cánh Cò còn chưa biết rằng mấy con ốc vít của Việt Nam được làm ra chỉ để chưng chơi, cho vui mắt, chứ không có giá trị thị trường vì “chi phí năng xuất thấp” và “giá thành quá cao” – vẫn theo như (nguyên văn) lời của ông Bộ Trưởng Công Thương Vũ Huy Hoàng.

Sản xuất ra ốc vít mà gía mắc hơn mua thì mất công làm chi cho má nó khi. Hãy nghe lời khuyên của Tiến Sĩ Lê Đăng Doanh (trình bầy trước Bộ Chính Trị) từ năm 2009:

“Tại sao thằng Nhật Bản nó không làm máy bay? Không phải là công nghiệp của nó không làm được máy bay đâu. Mà bởi vì là nó làm cái máy ảnh kỹ thuật số nó lãi nhiều hơn. Chứ máy bay không có nhôm, không có thứ này khác, nó làm làm gì. Chứ không phải thằng Nhật Bản là thằng ngu, thằng khờ, đến mức nó không làm được máy bay. Nó làm được khối, nó làm được máy bay chiến đấu của nó khá ra phết chứ không phải là ít đâu. Thế nhưng mà những gì mà nó cho rằng không cạnh tranh được thì không làm, làm cái khác, thế thôi.

Cái khác là cái gì đây cà?

Cái đinh nhá? Đinh mà cứ đóng là vẹo ngay và giá thành lại cao hơn đinh nhập khẩu thì cũng hỏng bét.

Thôi thì đành quay về tay nghề (tiểu công nghệ) truyền thống của cha ông, không dây vào những “công nghiệp nặng” như chủ trương lớn của Đảng và Nhà Nước, như trước nữa.

Ta làm cái tăm và cái đũa vậy.

Tưởng vậy nhưng cũng không phải vậy.

Trên báo Hà Nội Mới, số ra ngày 15 tháng chín năm 2014, ông Cù Xuân Trường buồn bã cho hay:

Mỗi năm, Việt Nam phải nhập khẩu cả chục nghìn tấn đũa tre, tăm tre từ Trung Quốc. Với một đất nước "đâu đâu ta cũng có nứa tre làm bạn", liệu đây có phải là câu chuyện bình thường? Phải chăng chiếc tăm, đôi đũa của nước ngoài được chế tạo bằng một loại "công nghệ" đặc biệt và có những "công năng" sử dụng vượt trội so với chiếc tăm, đôi đũa của ông bà ta để lại từ xa xưa?

Vì chính sách thuế chưa thực sự khuyến khích việc đầu tư sản xuất nên giá thành một gói tăm, đôi đũa của Việt Nam cao hơn của Trung Quốc? Vì các doanh nhân Việt Nam quen thói "làm ngay, ăn ngay"? Hay là vì rừng tre Việt Nam đã cạn kiệt đến mức không còn đủ nguyên liệu cho sản xuất?


Riêng về câu hỏi cuối thì trang VEF (Vietnam Economic Forum) đã có câu trả lời, từ lâu rồi:

 “Hàng ngàn tấn tre nguyên liệu không kể non hay già đã được thương lái Trung Quốc tận thu tại các vùng trồng tre vào năm 2010, ông Nguyễn Văn Hà, Giám đốc Công ty Tăm tre Bình Minh (Hà Nội), cho biết. Doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm từ tre trong nước như tăm tre, đũa tre... khi ấy đã rơi vào tình cảnh đói nguyên liệu.

Cùng thời gian trên, báo Hải quan đưa tin, 1.118 tấn tăm tre được nhập qua các cảng vào Việt Nam, chủ yếu từ Trung Quốc, Đài Loan. Các doanh nghiệp trong nước lúc này lại đau đầu với một khó khăn khác: tìm đầu ra cho sản phẩm khi phải cạnh tranh khốc liệt với tăm tre nhập khẩu giá rẻ...

Đó là chưa kể, trồng tre cũng là trồng rừng, có tác dụng bảo vệ môi trường, khí hậu. Khai thác tre quá mức cũng không khác nào tàn phá rừng.

Đã đến lúc, các doanh nghiệp trong nước phải tìm cho mình hướng đi mới...”

Còn hướng (mẹ) nào nữa mà tìm?

Không làm được con ốc vít, không làm được cây tăm, cây đũa thì biết làm gì để sống?
Tiến sĩ Vũ Minh Khương, giảng viên Đại Học Quốc Gia Singapore.

Chuyện mưu sinh, kể ra, cũng không khó khăn chi lắm – ở Việt Nam – theo nhận định của tiến sĩ Vũ Minh Khương:

“Ông cha chúng ta để lại cho chúng ta đất đai ở vị thế đẹp và nhiều tài nguyên quý giá. Thế giới lại thương cảm chúng ta đã trải qua những cuộc chiến tranh khốc liệt. Thế hệ chúng ta chỉ cần cho nhượng thuê đất trong các dự án đầu tư dễ dãi, bán tài nguyên, và vay nợ quốc tế cũng đủ sống xênh xang được 20-30 năm nữa. Ta nhượng đất của ông cha làm sân golf và dân ta sẽ không thể đói nhờ nghề nhặt bóng và đánh giày” Mỗi chúng ta, dù sao hãy cùng trả lời một câu hỏi day dứt: Dân tộc Việt Nam ta hôm nay có đủ lòng quả cảm “chặt cầu để tiến lên không?”

Chớ còn ảo tưởng gì nữa về cái “cầu XHCN” mà không chặt mẹ nó đi cho xong nợ!
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Sổ Tay Thường Dân

Post by uncle_vinh »

Cầu Tiêu & Quốc Hội
Wed, 11/19/2014 - 02:31

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Cách tổ chức lấy phiếu tín nhiệm của Quốc hội Việt nam có quá nhiều điều bất cập, có lẽ đấy chính là nguyên nhân khiến cho kết quả việc lấy phiếu tín nhiệm của Quốc hội là một việc làm vô ích và không có hiệu quả như mong muốn. Kết quả cuối cùng thì cũng đã thấy, tức là chẳng có ai mất chức, hay bị cách chức như nhiều người kỳ vọng, nghĩa là mọi cái vẫn giữ y nguyên.

Kami


Tôi có việc phải trở lại Singapore, chút xíu. Ai nói gì thì nói, tôi cứ Vietnam Airlines mà chọn mặt gửi vàng.

Đi hãng hàng không của ta, ít ra, cũng có ba cái lợi: khỏi phải nói tiếng nước người, được nghe mọi thông báo của phi hành đoàn bằng tiếng nước mình, và vừa bước chân vào khoang máy bay là các em tiếp viên phát ngay cho vài ba tờ báo tiếng Việt. Đọc báo nhà nước không chỉ đỡ mệt mà còn thấy khoẻ thêm vì thường chỉ có những tin tức (cùng hình ảnh) vô cùng lạc quan về đồng bào và tổ quốc.

Y như rằng, ngay trang đầu đã có tin vui:

8h45 sáng, thay mặt ban kiểm phiếu, Trưởng ban Đỗ Văn Chiến đã lần lượt công bố kết quả lấy phiếu tín nhiệm đối với 47 chức danh chủ chốt...

Chủ tịch Quốc hội nhận định, những vị trong danh sách lấy phiếu đều có trọng trách liên quan tới vấn đề lớn. “Đối với những lĩnh vực nóng như ngân hàng, giáo dục, y tế, xây dựng thì Quốc hội đòi hỏi trách nhiệm cao hơn. Phiếu tín nhiệm cao của Quốc hội là sự động viên khích lệ đồng thời là sự đánh giá kết quả đất nước đạt được thời gian qua. Còn phiếu tín nhiệm thấp thể hiện sự đòi hỏi nghiêm túc đối với người được lấy phiếu để các vị này có thể hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ được giao”, Chủ tịch Quốc hội nhận xét.

Cũng theo ông, Quốc hội đã hoàn thành trọng trách nhân dân cả nước giao về đánh giá tín nhiệm bước đầu. Đây sẽ là cơ sở để các lần sau rút kinh nghiệm khi tiến hành quy trình này ở các cấp HĐND.

“Kết quả cuối cùng rất tốt”, người đứng đầu cơ quan lập pháp chốt.

Thật là là “phấn khởi” và yên tâm biết mấy: “Quốc hội đã hoàn thành trọng trách nhân dân cả nước giao về đánh giá tín nhiệm bước đầu” và tất cả “47 chức danh chủ chốt” đều vẫn được tín nhiệm như thường, dù tỉ số (thấp/cao) cũng có xê xích phần nào hay chút đỉnh.

Phải uống mừng với được, dù chỉ là mừng thầm. Đợi máy bay bình phi, tôi nói nhỏ với một em tiếp viên:

Cho chú hai chai Vodka Smirnoff nha.

Nói là “chai” cho nó oai, chớ dung tích chỉ 50ml nhỏ xíu xiu hà, ngó thấy “thương” lắm. Nốc xong hết trơn vẫn chả thấy bõ bèn gì mà niềm vui (về “trọng trách do nhân dân giao phó cho quốc hội đã hoàn thành”) vẫn cứ còn âm ỉ nên tôi nói khẽ với một em tiếp viên khác, vừa chợt đến:

Khi nào rảnh, cho chú hai lon Heineken.

Hai lận sao?

Thì khỏi mất công cháu phải đi tới đi lui, mỏi cẳng, chớ sao!

Tôi nhâm nhi đậu phụng với bia xong thì sự “hồ hởi” cũng nguôi dần nên ngủ thẳng một giấc cho đến khi máy bay đáp xuống phi trường Changi, Singapore.

Đến lúc này mới thấy là bụng hơi nằng nặng. Đúng là mình có hơi quá chén nhưng chả lẽ trước nềm vui “vỡ oà” của cả nước mà mình giữ thái độ lạnh lùng (không uống giọt nào) thì coi sao được, đúng không.

Vừa bước ra khỏi máy bay là đi ngay đến W.C. Dù hơi vội vã trong việc “xả bầu tâm sự” nhưng tôi vẫn không khỏi ngạc nhiên là sao cầu tiêu, cầu tiểu của họ trắng tinh và sạch bóng vậy nè – Trời?

Phần lớn restroom ở trong tất cả những sân bay quốc tế đều sạch sẽ nhưng sạch quá cỡ thợ mộc, sạch như lau như li thì thiệt là chưa từng thấy, và có lẽ chỉ có ở cái phi trường này thôi.

Tôi chỉ bớt kinh ngạc khi bước ra, và nhìn thấy trên bức tường bên phải lối đi có bức hình một phụ nữ chừng đã đứng tuổi (đeo bảng tên Loh Kam Beng) đang cầm chổi tươi cười, với câu chào (“Good Afternoon”) cùng hàng chữ “Please rate our toilet - Xin chấm điểm nhà vệ sinh của chúng tôi,” và bên dưới là 5 cái nút tròn ghi thang điểm theo thứ tự: tuyệt hảo, tốt, trung bình, tệ, rất tệ.

Image
Thường dân Loh Kam Beng và thường dân Tưởng Năng Tiến ở phi trường Changi. Ảnh: NCB

Chỉ có chuyện vệ sinh trong cầu tiêu mà sao thiên hạ lại thực hiện một cách đàng hoàng, rõ ràng, minh bạch, và tiện dụng dữ vậy cà? Không dưng tôi bỗng nhớ lại chuyện lấy phiếu tín nhiệm (kín) của quốc hội ở nước ta, bữa rồi, và chợt cảm thấy có hơi ... ngường ngượng!

Image
Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng phát biểu trước QH sáng 14.11 - Ảnh: Ngọc Thắng

Nhìn kỹ bức ảnh với nét tự tín và tươi vui của người phụ trách việc chùi rửa phòng tiêu tiểu ở Singapore, rồi liên tưởng đến bức hình (chụp sáng 14 tháng 11) của ông Chủ Tịch Quốc Hội Việt Nam – trông âu lo và ngượng ngập ra mặt – khiến tôi cũng có đôi chút ... lăn tăn: Quả là không có nghề nào đê tiện hay hèn hạ, chỉ có tư cách của người hành nghề mới là điều cần phải quan tâm.

Thì cũng “lăn tăn đôi chút” thế thôi chớ một anh già nát rượu (cỡ tôi) mà “quan tâm” nhiều quá về chuyện triều đình (e) cũng không... tiện lắm. Không khéo lại còn rách việc thêm ấy chứ. Phát biểu linh tinh là tù tội như không chớ đâu phải chuyện giỡn, mấy cha?

Chui vào taxi, lục xục một hồi mới kiếm ra cái địa chỉ của nơi tạm trú ngụ lần rồi: Hotel 81 Gold, 20 Lorong 20 Geyleng, Singapore 398738.

Gọi là khách sạn cho nó sang chứ thực ra đây chỉ là một thứ phòng ngủ rẻ tiền, với một cái giường bé xíu xiu, và cái phòng tắm nhỏ chưa bằng một nửa ... cái giường. Đất ở Singapore không rẻ, và riêng ở Phố Đèn Đỏ Geyleng (chắc) phải mắc cũng cỡ kim cương nên phòng chật, và giá cả “không nhân nhượng” là chuyện tất nhiên.

Biết vậy nhưng tôi vẫn muốn trở lại khu này, trở lại những quán cà phê ở hai con hẻm 20 và 21 (Lorong 20 & 21) với hy vọng được gặp lại những khuôn mặt đồng hương cũ – những phụ nữ mà tôi đã có dịp tiếp chuyện mấy tuần lễ trước, và đã giới thiệu họ (cũng trên diễn đàn này) như Những Cánh Bèo Trôi Ở Geyleng.

Sở dĩ họ trôi dạt đến đây vì Việt Nam không còn chỗ chen chân cho những người bán hàng rong hay bán vé số nữa. Singapore tuy cũng chật hẹp nhưng lòng người, xem chừng,vẫn còn rộng rãi.

Đây là một đảo quốc giầu có, với lợi tức bình quân đầu người hàng năm cao nhất nhì thế giới. Dân bản xứ không ai phải đi làm điếm, bán hàng rong, hoặc đi ăn xin nên họ “nhường” việc làm này cho những người Việt tha hương – đang bị đẩy đến bước đường cùng.

Người Singapore không chỉ hào phóng mà còn vô cùng cởi mở. Họ chấp nhận đến bốn thứ ngôn ngữ chính thức khác nhau: tiếng Anh, tiếng Mã, tiếng Tầu, và tiếng Tamil.

Bán giấy chùi miệng là một nghề tương đối mới mẻ của người Việt ở Singapore. (Cũng có người bán vé số nhưng rất ít vì ai cũng ngại phải “ngậm” những tấm vé không bán kịp trước giờ sổ). Dù thời hạn cho phép “du lịch” chỉ trong vòng một tháng, mỗi một chuyến đi – sau khi trừ chi phí máy bay và ăn ở – trung bình một người chịu khó đi bán không ngừng (chừng mười hai tiếng mỗi ngày) có thể để dành được từ tám trăm đến một ngàn đô. Một năm nếu đi được vài lần thì mang về được ba bốn ngàn Mỹ Kim.

Thực khách ở Singapore không ai cần giấy chùi miệng nhưng họ vẫn vui vẻ (và tế nhị) chia sẻ vài đồng tiền lẻ với những kẻ không may ở nước láng giềng, qua hình thức bán/mua. So với dịch vụ xuất khẩu lao động rất nhiêu khê, tốn kém, phải cầm cố nhà cửa, và bị lường gạt đều đều thì “thương vụ” bán giấy chùi miệng (rất lương thiện này) quả một là phát kiến thần tình, rất đáng được hoan nghênh.

Tắm rửa xong, tôi ngủ một giấc cho đến khuya rồi lò dò ra quán đầu đường kêu hai chai bia Carlsberg và một đĩa cơm gà Hải Nam. Cơm giá chỉ ba đô Singapore thôi, nghĩa là chưa tới 2 đồng 50 xu tính theo Mỹ Kim bản vị. Chỉ có điều là hơi ít nhưng với tôi thì ăn không thành vấn đề, uống mới là ... chủ yếu!

Chưa kịp nhấp môi đã nghe tiếng gọi:

Ủa, chú còn ở Sing hả? Qua đây ngồi chơi với tụi con đi...

Bàn góc bên kia già trẻ toàn là đàn bà, con gái. Tôi cầm chai bia xề lại, với cái cảm giác dễ chịu như vừa gặp lại người thân:

Sao không ai làm ăn buôn bán gì ráo trọi mà tụ tập hết cả xóm ở đây vậy cà?
Tụi con ngồi chơi với con Bẩy chút xíu, mai nó về rồi.
Sao vậy?
Visa hết hạn chú à.
Kỳ này Bẩy đi kiếm “bộn” không?
Không dám “bộn” đâu! Trừ tiền ăn, tiền ghép phòng chưa chắc còn ngàn đô mà đi bộ ròng rã cả tháng trời thiếu điều muốn “gớt” cái cẳng ra luôn. Làm gái như hai con này mới khá, chớ bán giấy thì cũng như đi ăn xin thôi, được nhiêu đó cũng mừng muốn chết rồi.
Đợt sau qua lại nhằm mùa Noel với tết Tây chắc đỡ hơn nhiều.
Không chắc có qua được nữa không đó. Nghe nói họ sắp “xiết” lại rồi. Người mình qua mỗi lúc một đông và qua liền liền như vậy mà ai chịu cho thấu ...
Thiệt, nếu không qua đây được nữa thì ở nhà riết biết làm gì ra mà ăn ...

Câu chuyện giữa chúng tôi dù lan man tới đâu, cuối cùng, vẫn dẫn vào một cái ngõ cụt. Tương lai, rõ ràng, không rộng mở cho những cô gái và những người đàn bà Việt Nam mà tôi gặp lại khuya nay – ở Geyleng.

Họ là những người mẹ, người chị đã tảo tần thương khó để giữ cho dân tộc này chưa đến nỗi bị diệt vong. Tôi nhớ là đã có đọc (đâu đó) câu này của Solzhenitsyn khi ông nhắc đến phụ nữ của nước Nga, vào thời Stalin.

Ở Geleyng dường như người ta không ngủ nhưng dù sao thì đêm vẫn cứ tàn dần, rồi trời bắt đầu hửng sáng. Chúng tôi, cuối cùng, rồi chia tay. Ai đi đường nấy.

Image
Khu Đèn Đỏ Geyleng. Ảnh: NCB.

Tôi mệt mỏi lê bước trở lại khách sạn mà lòng nặng trĩu. Tuy uống khá nhiều bia nhưng trong cái váng vất của hơi men tôi vẫn cứ còn nhớ đến “kết quả tốt đẹp của cuộc lấy phiếu tín nhiệm của quốc hội, đối với 47 chức danh chủ chốt” vừa qua. Tín nhiệm cao, tín nhiệm, tín nhiệm thấp gì cũng vẫn cứ còn tín nhiệm như thường. Nghĩa là vẫn vẫn ... y như cũ. Tuyệt nhiên chả có chút thay đổi nào ráo trọi.

Lại chợt nghĩ đến lời của ông T.B.T Nguyễn Phú Trọng: “Đổi mới chỉ là một giai đoạn, còn xây dựng CNXH còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa. ”Nhà đương cuộc Hà Nội vẫn chưa tiến đến giai đoạn đổi mới (thật) nên sẽ còn rất nhiều thế hệ con dân Việt Nam đến Geyleng để bán thân, hay bán giấy, nếu người dân của đất nước láng giềng vẫn còn tiếp tục mở rộng vòng tay chào đón chúng ta.

Thiệt là quá đã, và quá đáng!


tuongnangtien's blog
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Sổ Tay Thường Dân

Post by uncle_vinh »

Bạc Ác & Xuẩn Động
Tue, 12/23/2014 - 18:04 — tuongnangtien

Image

Đối nghịch với Nhân dân, khác nào con thuyền, ngược dòng trong bão tố. Đợi đến khi: “Lật thuyền, mới biết sức Dân như nước” thì mọi chuyện đã trở nên quá muộn mằn.
Nguyễn Tiến Dân


Bữa rồi, Giáo Sư Ngô Vĩnh Long có than phiền (đôi chút) về ông Nguyễn Phú Trọng:

“Tôi nghĩ rằng người ta cũng không nên khinh rẻ dân chúng. Khi mà dân chúng, người cử tri hỏi những câu hỏi đàng hoàng, thì người ta cũng nên trả lời một cách đàng hoàng mà không nên thái quá.”

Tưởng gì chớ nói năng không được “đàng hoàng” hay “bạ đâu nói đó” (vốn) là đặc tính chung của giới lãnh đạo Hà Nội, chớ không phải chỉ mình ên ông Tổng Bí Thư. Về vụ này, Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn cũng đã đưa ra một nhận xét tuy khái quát nhưng hoàn toàn chính xác:

“Họ không nói được cái gì cụ thể, mà chỉ xoay quanh các khẩu hiệu quen thuộc, kiểu như ‘dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh…’ những bài nói chuyện của lãnh đạo VN rất khó gần với người dân do ngôn ngữ cứng đơ và kém thân thiện, và cách họ triển khai bài nói chuyện quá xa rời công chúng.”

Nói nào ngay thì giới lãnh đạo có không muốn “xa rời công chúng” e cũng không được, bởi thiên hạ đâu có ai thích “gần” với họ. Dân ngán mấy chả thấy mụ nội luôn. Nhà văn Phạm Đình Trọng xem đây là “Nỗi Ngán Ngẩm Thường Ngày” của riêng ông:

"Là nhà lãnh đạo cấp cao đương chức nên ông thường xuất hiện trên truyền hình trong các chương trình thời sự. Vì thế, hầu như ngày nào tôi cũng phải thấy ông! Đang chăm chú theo dõi thông tin về những sự việc dồn dập của cuộc sống sôi động, thấy ông xuất hiện, tôi ngán ngẩm quá phải nhìn đi chỗ khác hoặc bấm remote chuyển sang kênh thể thao, giải trí nước ngoài.”

Chỉ sau vài tuần sống ở Việt Nam, một nhà văn khác – Hoàng Mai Đạt – cũng đã cảm thấy (“ngán ngẩm”) y như vậy:

“Như tránh người ăn mày, tôi cũng dần dần làm ngơ tin tức trên đài truyền hình. Trong vài ngày đầu tiên ở Việt Nam, tôi ngạc nhiên khi thấy mọi người vội tắt máy truyền hình đúng giờ có tin tức…nhiều người ở đây thản nhiên rời máy truyền hình, để làm những công việc khác trong giờ tin tức buổi chiều. Họ có thể ăn uống, vào nhà vệ sinh, ra ngoài hiên hút thuốc lá, hoặc ngồi chơi với chó.”

Nói tóm lại (và nói cách khác) thì các đồng chí lãnh đạo muốn nói gì, và nói sao, cũng được. Ăn cũng thế. Miệng người sang có gang có thép mà. Ăn bi nhiêu thì ăn. Cứ ăn tất tần tật. "Ăn của dân không từ một cái gì" mà có ai (dám) ho he hay hó hé gì đâu.

Người dân chỉ phiền hà về những việc làm vô cùng bạc ác, rất thất nhân tâm (và cũng rất ngu xuẩn) của qúi vị thôi. Xin đơn cử vài thí dụ.

Trong cuốn Đèn Cù II, vừa xuất bản, Trần Đĩnh kể lại chuyện sau:

“Vấn có bạn là Bác sĩ Mai Thế Trạch, con bà Lợi Quyền tư sản lớn từng lẫy lừng chuyên quyên góp rất nhiều vàng cùng nhà cửa trong Tuần lễ Vàng. Còn lại một ngôi nhà, sau được Ban tuyên huấn trung ương đến hỏi. Chê đắt. Đùng một hôm, xe tuyên huấn chở mấy bao tải tiền đến mua, đắt cũng được. Ba ngày sau đổi tiền. Tố Hữu, nguyên trưởng ban tuyên huấn, đã hạ thời cơ tuyệt hảo chấm dứt cơ nghiệp đại gia tư sản Lợi Quyền có tiếng ở Hà Nội. Bằng giấy lộn.”

Còn trong cuốn Hậu Chuyện Kể Năm 2000, sắp xuất bản, lại có câu chuyện khác:

“Hơn mười năm sau, khi cháu Bùi Quang Dũng học đại học Hàng Hải, nhà trường có chủ trương tất cả sinh viên đều làm hộ chiếu. Tôi biết điều gì sẽ đến với cháu, nhưng chẳng lẽ bảo con đừng khai, đừng nộp hồ sơ lên công an. Quả nhiên hồ sơ cháu được Công An Phường ghi: 'Bố đi tù 5 năm về tội phản tuyên truyền.' ... Tôi cơ hồ tuyệt vọng. Hoàn toàn không nghĩ là con mình được vào đại học, bởi con em nông dân lao động không vào hợp tác xã cũng không được học đại học huống hồ con một tên phản động! (Bùi Ngọc Tấn. Hậu Chuyện Kể Năm 2000. Tiếng Quê Hương. Fallchurch, Virginia: 2014).

Bùi Ngọc Tấn đã về cõi vĩnh hằng. Cái mô hình kinh tế hợp tác xã cũng không còn nữa. Chuyện cũ (thôi) nhắm mắt cho qua luôn đi nhưng những câu chuyện tiếp nối (vẫn còn nguyên tính cách thời sự) thì thiệt là ... không biết phải nhét vào đâu đây, cho nó đỡ kỳ. Coi:

Ngày 15 tháng 5 năm 2014, trên trang F.B của nhà văn Nguyễn Tường Thụy, người ta đọc được những dòng chữ sau của tác giả Dương Thị Tân: "Tiếng chuông điện thoại đổ liên hồi. Tôi nhấc máy, đầu dây bên kia một giọng nói nghẹn ngào: ‘Chị ơi, mẹ con em khổ quá.’ Định thần mãi tôi mới nhận ra giọng của cô Dinh, vợ thầy Đinh Đăng Định. Nhắc cô bình tĩnh, nói từ từ thì tôi mới nghe được. Cô kể rằng con cô, cháu Đinh Phương Thảo đang dọn nhà trong mưa mà không biết phải đi đâu vì trong hơn một tháng qua đã phải đi thuê nhà ba lần, nhưng chỉ ở được ít ngày thì lại phải dọn đi vì bị chủ nhà đuổi...

Sau đó tôi gọi cho cháu Thảo. Cháu kể: ‘Con vừa mang món đồ cuối cùng lên gác thì cô chủ nhà đến nói: xin lỗi con có phải là Đinh Phương Thảo không, nếu là Đinh Phương Thảo thì cô chủ không cho con thuê được đâu. Vì lúc nẫy có người gọi điện cho cô chủ yêu cầu cô ấy hoặc là không cho người có tên Đinh Phương Thảo thuê nhà hoặc là tất cả những khách đang thuê phải dọn đi hết.

Vì vậy, cô ấy chỉ còn cách năn nỉ xin con hãy chuyển đi nơi khác giùm mà thôi. Con nói tối rồi, mà trời lại đang mưa, cô hãy cho con ở tạm qua đêm, sáng mai con tính. Cô chủ đồng ý nhưng ít phút sau cô lại lên nói con phải đi ngay trong đêm, không được ở lại đâu. Nếu không đêm nay người ta sẽ đến khám xét nhà trọ. ‘Kể đến đây, cháu khóc: ‘Cô ơi, con biết đi đâu bây giờ..."


Không ai, kể cả nhà văn Bùi Ngọc Tấn, biết nguyên do ông phải vào tù nhưng mọi người Việt Nam đều biết tại sao nhà giáo Đinh Đăng Định bị bắt giam: Ông công khai và cương quyết chống lại “chủ trương nhất quán của Đảng” về việc khai thác bauxite tại Tây Nguyên.

Chủ trương lớn này gây lỗ lã và tác hại ra sao (đến nay) mọi người đều đã rõ: càng làm càng rõ! Nhà giáo Đinh Đăng Định cũng đã từ trần. Thân nhân của người quá cố không hề nhận được một lời tạ lỗi (đã đành) mà còn bị tiếp tục săn đuổi, và áp bức cho đến nỗi không còn chỗ dung thân!

Tại sao qúi vị lãnh đạo lại “quyết tâm” đến thế? Và ác tâm như thế để làm gì? What’s the point ? Sao không dành sự “quyết tâm” tương tự cho hàng trăm thứ tệ đoan đầy rẫy khắp xã hội, hay cho việc việc bảo vệ lãnh thổ và lãnh hải đang bị ngoại bang uy hiếp?

Ngày 12 tháng 10 năm 2014, phóng viên Hoà Ái (RFA) phỏng vấn một thành viên Mạng Lưới Blogger Việt Nam, về việc nhân vật này vừa bị bạo hành. Sau đây là câu trả lời của nạn nhân, cô Nguyễn Hoàng Vi:

“Việc xảy ra vào khoảng 3:30 giờ chiều hôm qua lúc đi bộ ra ngoài. Khi đi thì thấy có nhiều người an ninh mặc thường phục đi theo. Bắt đầu khi đi về nhà thì có 3 phụ nữ đi trên 2 xe máy, tông vào em trong khi xung quanh có rất nhiều dân phòng lẫn an ninh mặc đồ bình thường.

Em nghĩ là họ đang muốn kiếm chuyện cho nên khi bị họ tông như vậy thì em chỉ né qua một bên, nhảy lên lề chứ không có động thái nào nói lại họ hay gây hấn gì với họ hết. Nhưng 3 người phụ nữ này vẫn đuổi theo em. Họ chạy lên trước em và quay đầu xe lại để tiếp tục tông vào người em.

Lúc đó em quay lại phía sau, thấy có nhiều thanh niên mặc thường phục lẫn dân phòng và có nhiều phụ nữ rất đông. Em cố chạy về nhà nhưng không kịp. Họ từ tứ phía vây lại, đánh em rất nhanh, rất dã man. Người phụ nữ tông xe vào em thì dàn cảnh hô lên là em giựt chồng này kia.”

Tôi nghe xong mà mặt cứ đỏ mãi vì xấu hổ. Không hiểu kể từ lúc chở cả xe tiền đi mua nhà của một vị ân nhân cách mạng (rồi ba ngày sau có lệnh đổi tiền) đến màn “dàn cảnh” đánh ghen (tuần qua) thì cái chủ trương (gian xảo, đểu cáng, bẩn thỉu, đê tiện) nhất quán và xuyên suốt của Đảng đã đã kéo dài được bao năm rồi?

Liệu cái phương cách “trị an” (đốn mạt, bạc ác, ngu xuẩn và ti tiện) như vậy thêm được bao lâu nữa? Và sau khi vở kịch cách mạng hạ màn thì các đồng chí lãnh đạo sẽ trốn vào cái xó nào?

Tôi không có ý dọa ai mà chỉ muốn bầy tỏ nỗi lo âu (trong tương lai gần) khi chính qúi vị – cũng như thân nhân – đều biến thành đích nhắm cho sự oán hận, và phẫn uất đã chất chứa trong lòng người từ hơn nửa thế kỷ qua! Dân Việt vốn bao dung, nhân ái, và độ lượng nhưng nếu qúi vị vẫn tiếp tục những hành vi bạc ác và gian ác (cho đến ngày tàn) thì chung cuộc e rất khó lường!

Xin ngưng ném mắm thối, ném phân, đổ nước tiểu vào nhà người dân hay nhất định dồn họ đến bước đường cùng để (mai hậu) những chuyện tương tự sẽ không xẩy ra cho chính gia đình và con cái của qúi vị!


tuongnangtien's blog
dacung
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Sổ Tay Thường Dân

Post by uncle_vinh »

Chút Lính Miền Nam
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Cho tôi thắp một nén nhang
Khóc người đồng chí
Mà bấy lâu nay tôi cứ đinh ninh là ngụy
Tha thứ cho tôi một thế hệ bị lừa !

Lê Phú Khải

Bạn tôi, tất cả, đều là lính ráo. Chúng tôi không chỉ có chung những năm cầm súng, và một quãng đời tù mà còn chia chung rất nhiều ... cố “tật!” Hễ gặp nhau là uống, và câu chuyện trên bàn rượu trước sau gì rồi cũng xoay quanh kỷ niệm về đám chiến hữu hồi còn chinh chiến: những thằng đã chết, những đứa đang vất vưởng ở quê nhà, hay lưu lạc (đâu đó) nơi đất lạ xứ người.

Thỉnh thoảng, khi (quá) vui, chúng tôi cũng hay mang những vị thượng cấp cũ ra làm đề tài giễu cợt. Hai ông huynh trưởng thường bị nhắc tới để cười chơi là Trần Hoài Thư, và Phan Nhật Nam. Lý do: cả hai vị vẫn nhất định chưa chịu giải ngũ, dù cuộc chiến đã tàn tự lâu rồi!

Trung Úy Trần Hoài Thư vẫn thản nhiên đưa quân Qua Sông Mùa Mận Chín. Đại Úy Phan Nhật Nam vẫn cứ la hét um xùm qua máy truyền tin (giữa Mùa Hè Đỏ Lửa) như thể là cái mùa Hè năm 1972 đó vẫn còn kéo dài đến bây giờ, dù hơn 40 năm đã lặng lẽ trôi, với cả đống nước sông – cùng nước suối, nước mưa, nước mắt... – đã ào ạt chẩy qua cầu và qua cống.

Sau khi cạn mấy đầy, rồi đầy mấy ly cạn (và sau màn trình diễn “một ngàn bài Bolero”) tôi hay xin "trân trọng tuyên bố cùng toàn thể các chiến hữu các cấp" rằng :

Ai viết cái gì tôi cũng đọc tuốt luốt, trừ hai vị thẩm quyền (nhí) này thì khỏi!
Sao vậy cà?
Bởi vì thơ với văn của hai ổng có nhiều câu mà “lỡ” đọc một là nó bị kẹt luôn trong đầu, gỡ không ra, nên tui không dám đọc thêm nữa:

Trên đầu ta mũ rừng nhẹ hẩng
Trong túi ta một gói thuốc chuồn
Bắt tù binh mời điếu thuốc thơm
Ðể thấy miền Nam lính hiền ghê gớm

...

Ta lính miền Nam hề, vận nước ngửa nghiêng
Ta cũng lênh đênh cùng cơn mạt kiếp
Ta trèo lên cây hỏi rừng cho biết
một nơi nào hơn ở Việt Nam ?
Có người lính nào bi tráng hơn lính miền Nam ?

Trần Hoài Thư (“Ta Lính Miền Nam”)

Image
Nguồn ảnh:internet

Không chỉ bi tráng, bi hùng, hay bi phẫn mà (đôi khi) người lính miền Nam còn phải đối diện với lắm nỗi bi thương:

“Tôi đi vào ngôi nhà đang âm ỉ cháy, những chiếc cột lớn lỏng chỏng hỗn độn bốc khói xám... Một người đàn bà áo trắng quần đen tay ôm chiếc lẵng mây trước ngực ngồi im trên nền gạch đôi mắt nhìn thẳng ngơ ngác. Thấy chúng tôi đi vào chị ta đứng dậy, đứng thẳng người như pho tượng, như thân cây chết với đôi mắt không cảm giác. Thằng bé theo tôi cùng cùng tên hiệu thính viên lẻn ngay vào bếp kiếm thức ăn. Tôi đi đến trước chị đàn bà...

- Làm gì chị ngồi đây, không biết đang đánh nhau sao?

Im lặng, đôi mắt ngơ ngác lóe lên tia nhìn sợ hãi. Bỗng nhiên chị ta đưa thẳng chiếc lẵng mây vào mặt tôi, động tác nhanh và gọn như một người tập thể dục. Sau thoáng ngạc nhiên tôi đưa tay đón lấy... Hai bộ áo quần, chiếc khăn trùm đầu, gói giấy nhỏ buộc chặt bằng dây cao su. Mở gói, hai sợi giây chuyền vàng, một đôi bông tai.

- Của chị đây hả? - Vẫn im lặng. Nỗi im lặng ngột ngạt, lạ lùng.

- Con mẹ này điên rồi thiếu uý, chắc sợ quá hóa điên...

Tên lính xua tay đuổi người đàn bà đi chỗ khác. Lạnh lùng, chị ta xoay người bước đi như xác chết nhập tràng.

- Chị kia quay lại đây tôi trả cái này... Tôi nói vọng theo.

Người đàn bà xoay lại, cũng với những bước chân im lặng, trở về đứng trước mặt tôi nhưng đôi mắt bây giờ vỡ bùng sợ hãi, vẻ hốt hỏang thảm hại làm răn rúm khuôn mặt và run đôi môi... Chị ta còn trẻ lắm, khỏang trên dưới hai bảy, hai tám tuổi, da trắng mát tự nhiên, một ít tóc xõa xuống trán làm nét mặt thêm thanh tú.

Tôi đưa trả chiếc lẵng mây, chị đàn bà đưa tay đón lấy, cánh tay run rẩy như tiếng khóc bị dồn xuống. Chiếc lẳng rơi xuống đất, hai cánh tay buông xuôi mệt nhọc song song thân người. Dòng nước mắt chảy dài trên má. Tôi hươi mũi súng trước mặt chị ta:

- Ngồi đây! Tôi chỉ nòng súng vào bực tam cấp. Khi nào tụi tôi đi thì chị đi theo... Tại sao khóc, nhặt vàng lên đi chứ... Im lặng, chỉ có nỗi im lặng kỳ quái, thân thể người đàn bà cứ run lên bần bật, nước mắt ràn rụa... Từ từ chị đưa bàn tay lên hàng nút áo trước ngực...

Không! Không thể như thế được, tôi muốn nắm bàn tay kia để ngăn những ngón tay run rẩy đang mở dần những hàng nút bóp để phơi dưới nắng một phần ngực trắng hồng! Không phải như thế chị ơi... Người đàn bà đã hiểu lầm tôi...

Chị ta không hiểu được lời nói của tôi, một người Việt Nam ở cùng trên một mảnh đất. Chị ta tưởng tôi thèm muốn thân xác và đòi hiếp dâm! Tội nghiệp cho tôi biết bao nhiêu, một tên sĩ quan hai mươi mốt tuổi làm sao có thể biết đời sống đầy máu lửa và đớn đau tủi hổ đến ngần này.

Tôi đi lính chỉ với một ý nghĩ: Đi cho cùng quê hương và chấm dứt chiến tranh bằng cách góp mặt. Thê thảm biết bao nhiêu cho tôi với ngộ nhận tủi hổ này...

(Phan Nhật Nam. Dấu Binh Lửa. Sài Gòn: Hiện Đại, 1969).

Ở thời điểm này, có lẽ, Phan Nhật Nam không hề biết rằng “sự ngộ nhận đớn đau tủi hổ” của dân chúng với những người lính miền Nam chả phải là “ngẫu nhiên” đâu. Nó đã được đối phương chuẩn bị rất kỹ, và tuyên truyền rất công phu – theo như nhận xét (gần đây) của giáo sư Nguyễn Văn Tuấn:

“Ngày xưa ở miền Bắc VN, tôi đoán người ta tuyên truyền nói xấu về chế độ miền Nam VN dữ lắm. Bộ máy tuyên truyền ngoài đó đã thành công gieo được vào đầu óc của người dân thường rằng chế độ Mĩ Nguỵ rất ác ôn; lính Nguỵ chỉ đánh thuê, rất ác ôn đến nỗi họ ăn gan uống máu người...”

Và đây cũng chả phải chỉ là chuyện “ngày xưa ở miền Bắc” đâu. Sau khi thắng cuộc “bộ máy tuyên truyền” vẫn tiếp tục bôi bẩn và xỉ nhục những người lính miền Nam, như thể họ vẫn còn là những kẻ thù ác độc và nguy hiểm.

Rảnh, thử xem qua vài đoạn trong một truyện ngắn (“Chuyện Vui Điện Ảnh”) của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư. Bà viết viết về “tai nạn nghề nghiệp” xẩy đến cho một tài tử nghiệp dư, chỉ vì lỡ thủ vai một thằng lính miền Nam:

Chú Sa diễn vai thiếu úy Cón (nghe cái tên thôi cũng thấy ghét rồi), một tên ác ôn giết vợ, hãm hại vợ người, tàn sát trẻ nít, huênh hoang phá xóm phá làng, sau chết vì bị chó điên cắn...

Khi chú mặc bộ đồ rằn ri vô mình rồi, ông đạo diễn không chê vào đâu được. Long Xưởng hô máy một cái là nét mặt chú Sa lạnh như người chết, con mắt trắng dã, lừ đừ, nụ cười bí hiểm. Lúc quay cận cảnh khuôn mặt chú còn ghê nữa, da sần sùi, u uẩn như da cóc, tay chân đầy lông lá, cái răng cửa gãy chìa ra một nụ cười chết chóc với lỗ trống sâu hun hút.

Hồi đầu mọi người còn khen chú mặc bộ đồ mắc toi đó coi oai thiệt, nhưng rồi sau đó nín bằn bặt, người ta quên chú Sa ở hẻm Cựa Gà đi, chỉ còn lại thằng Cón ác ôn. Thằng Cón cưỡng hiếp vợ một cán bộ Đảng mình đang mang thai.

Tới chừng biết đứa bé kia không phải con mình, hắn xé đứa nhỏ làm hai ngay trên giường đẻ, trước mặt người mẹ, cầm bằng đã giết chị ta. Phim bạo liệt, trần trụi. Thằng Cón chết, nó cũng không chết bình thường như người ta, nó chết trong dằn vặt.

Cái mặt lạnh tanh gớm ghiếc của nó co giật méo xệch, bọt mép sùi sụt. Nó cắn vô mấy thằng lính đứng quanh nó. Điên dại tới lúc bị bắn chết. Mọi người theo dõi thằng Cón chết, vừa hể hả vừa ghê tởm...

Chú Sa vẫn tiếp tục đi về trên con hẻm hẹp te mà nghe trống vắng thênh thang. Tụi con nít nghe tiếng xe đạp chú tè tè lọc cọc thì chắc mẩm đứa nào đứa nấy mặt xanh mặt tím chạy vô nhà trốn. Tụi nó hỏi nhau: "ổng đi chưa?", cũng tại má tụi nó nhát hoài, lì lợm, không ăn cơm là bị chú Sa ăn thịt. Rõ ràng là ấn tượng về thằng thiếu úy Cón mạnh mẽ quá sức tưởng tượng, rõ ràng là người ta bị giật mình bởi tội ác.

Bà con ngại ngần ác cảm giạt xa chú ... Chú Sa thấy đây đúng là một tai nạn ...

Cái “tai nạn” riêng của Chú sa chỉ xẩy ra trong phạm vi của một con hẻm nhỏ và sẽ không kéo dài lâu. Còn hàng triệu thằng lính miền Nam thật – cùng vợ con, thân nhân của chúng – không chỉ phải chịu đựng sự “ngại ngần ác cảm” của đám đông mà còn bị Nhà Nước Cách Mạng kỳ thị (và miệt thị) không biết đến bao giờ!

Mãi cho đến ngày 2 tháng 5 năm 2014, người ta mới nghe một viên chức ngoại giao của phe thắng cuộc, Thứ Trưởng Nguyễn Thanh Sơn, nói đôi lời tử tế:

Ngày xưa ta không thể nói là không có chính phủ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam. Đó là chính phủ cũng được quốc tế thừa nhận chứ. Đó cũng là một nhà nước có quân đội thực thi nhiệm vụ quốc gia của họ để bảo vệ chính nghĩa theo lý tưởng của họ.

Và đó cũng chỉ là sự tử tế ngoài miệng! Ngày 12 tháng 4 vừa qua, công an quận Hoàn Kiếm đã bắt giữ và buộc tội (“gây rối trật tự công cộng”) một số thanh niên đã mặc quân phục hay áo thun màu đen có biểu tượng Quân lực Việt Nam Cộng Hoà, trong cuộc tuần hành vì cây xanh ở Hà Nội.

Image
Các bạn trẻ mặc áo thun đen có biểu tượng QLVNCH. Ảnh: Nguyễn Lân Thắng

Hai tuần sau, sáng 27/4/2015, công an quận Hoàn Kiếm đã kết hợp với công an Nghệ An khám xét nhà của anh Nguyễn Viết Dũng (tức Dũng Phi Hổ) tịch thu quân phục lính VNCH của anh Dũng.

Việc gì mà phải hốt hoảng đến nỗi “khám nhà,” “tịch thu” và “vu vạ” tội trạng cho vài thanh niên chỉ vì y phục mà họ mặc trên người như thế? Chả lẽ cái chế độ hiện hành có thể bị rung chuyển chỉ bởi vài cái áo (“thun màu đen, có biểu tượng Quân lực Việt Nam Cộng Hoà”) sao?

Hơn nửa thế kỷ tuyên truyền lừa gạt, bôi bẩn, miệt thị những kẻ thua cuộc (bộ) chưa đủ nguôi ngoai thù hận hay sao? Nắm trọn quyền bính của cả một nhà nước trong tay mà sao có thể hành sử một cách đê tiện, và tiểu tâm đế́n thế?

Dù thế, thời gian đã không đứng về phe thắng cuộc, và đã dần hé mở dần chân dung của những người lính miền Nam:

Cho tôi thắp một nén nhang
Khóc người đồng chí
Mà bấy lâu nay tôi cứ đinh ninh là ngụy
Tha thứ cho tôi một thế hệ bị lừa !
Năm tháng đi qua
Gần hết cuộc đời tôi mới ngộ ra
Không giọt máu Việt Nam nào là ngụy
Trừ những thằng bán nước - đi đêm

Lê Phú Khải

Tưởng Năng Tiến
Post Reply