Từ Bàn Viết Houston

User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Từ Bàn Viết Houston

Post by uncle_vinh »

30 tháng tư: Bốn mươi năm nhìn lại

Lại 30 tháng 4! Bốn mươi năm sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, “lại 30 tháng 4” như những lời thở dài than thở của hàng chục triệu người trong nước và hải ngoại. Bốn mươi năm trước, định mệnh cho tôi làm một trong những chứng nhân của ngày lịch sử, chứng kiến đoàn quân Cộng Sản tiến vào Saigòn, đứng ở góc Công Lý và Thống Nhất cho đến khi xe tăng cộng quân cán sập cổng Dinh Độc Lập. Qua 40 năm, từ ngày cầm bút viết thường xuyên cho báo Ngày Nay năm 2001, mỗi năm ngày 30 tháng 4 đến tôi lại viết về chủ đề 30 tháng 4. Bốn mươi năm sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 từ một người trẻ 25 tuổi nay thành ông già 65, viết về 30 tháng 4 như một gợi nhớ về những kỷ niệm cũ, những cơ duyên trong đời, sau ngày chứng nhân của lịch sử, lại cho tôi gặp những nhân vật lịch sử của những năm tháng định mệnh.

“Trải qua những cuộc biển dâu, những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Cụ Nguyễn Du có sống lại chắc cũng cãm thấy câu thơ của mình buồn cười không đủ diễn tả được những cuộc biển dâu ở đất nước xứ sở của mình trong thế kỷ thứ hai mươi, thân phận Thúy Kiều không thể so được thân phận của người Việt Nam. “Biển Dâu” không thể so được với “Biển Máu” gây ra bởi một người cùng tỉnh Nghệ An với cụ Tiên Điền, kẻ hậu bối tên Nguyễn Tất Thành mang biệt hiệu “Ái Quốc”, không làm việc được cho Pháp và cộng tác với OSS của Mỹ, đi tìm đường “bán nuớc”, qua Pháp gia nhập đảng Cộng Sản bán tổ quốc cho Cộng Sản Quốc Tế dưới Chủ Nghĩa Mác Lênin. Chiến tranh giải phóng thực chất là chiến tranh nô lệ cho chủ nghĩa Cộng Sản bắt đầu khi ông Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản xé nát hiệp định Genève 1954. Trong khi miền Nam cố xây dựng kinh tế với nền Cộng Hòa thì Cộng Sản chỉ biết máu, lửa, hận thù và sức mạnh phá hoại cả hai miền. Đảng CSVN bắc chước Cộng Sản Nga và Trung Hoa từ cải cách ruộng đất, sang bằng giai cấp tư sản cho đến bạo lực cách mạng. Chiến tranh từ 1954 đến 1975 đã kết thúc vì sự phản bội của Hoa Kỳ sau hiệp định Paris năm 1973. Một cuộc chiến phức tạp, bên phía Hoa Kỳ gọi là chiến tranh Việt Nam, bên phía Cộng Sản gọi là chiến tranh Mỹ còn phía Việt Nam Cộng Hòa gọi là chiến tranh chống cộng. Bốn mươi năm sau nhìn lại, sau khi khối Xô Viết sụp đổ, sau khi CSTQ biến thể thành tư bản đỏ thì cuộc chiến đúng “nhân nghĩa thắng cường bạo” phải được gọi là chiến tranh chống cộng (cuộc chiến tranh có chánh nghĩa như nhà văn Nguyên Vũ đã đặt tên là “cuộc Thánh Chiến Chống Cộng”). Bốn mươi năm sau nhìn lại hai chế độ Cộng Hòa dưới thời T.T. Ngô Đình Diệm và T. T Nguyễn Văn Thiệu dù là hai chế độ Dân Chủ với những khuyết điểm vẫn hơn hẳn chế độ Cộng Sản miền Bắc sau năm 1954 và cả nước sau 1975 trên phương diện tự do, quyền làm người và bình đẳng giai cấp. Cuộc chiến chống cộng khởi đầu bằng một tổng thống Dân chủ, TT John F. Kennedy, chấm dứt bằng hiệp định Paris đạo diễn bởi TS Henry Kissinger người tạo trật tự thế giới mới sau chuyến đi thăm Trung Hoa của TT Richard Nixon năm 1972. Năm nay, 2015, TS Kissinger lại xuất hiện với trật tự thế giới mới đã bị giới tiến bộ chỉ trích lần nữa khi họ nhắc lại vai trò của Kissinger qua Hiệp định Paris năm 1973. Năm ngày trước kỳ tranh cử Tổng Thống năm 1968, TT Lyndon B. Johnson ra lệnh ngưng bỏ bom Bắc Việt. Kissinger hai ngày sau đó, qua bà Anna Chenault, đã nói với TT Nguyễn Văn Thiệu không đến hội nghị Paris vì TT Nixon sẽ có một hiệp định Hoà Bình tốt hơn cho VNCH. Đối với thành phần cấp tiến TS Kissinger là một tội phạm, đối với miền Nam VNCH, tội của ông nặng hơn là tội đã làm gia tăng con số tử vong của Việt và Mỹ trong thời chiến tranh VN.

TT John F. Kennedy sau buổi lễ nhậm chức đã hứa: “chấp nhận gian khổ, khó khăn để giúp đở bất cứ đồng minh nào của Hoa Kỳ chống lại bất cứ kẻ thù nào để bảo đảm cho sự sống còn và thành công của tự do”. Hoa Kỳ từ con số cố vấn quân sự 865 người qui định bởi hiệp định Genève đã tăng số quân lên 16 ngàn. Năm 1965, TT Johnson đổ thêm quân vào VN. Sau năm 1968, quân Mỹ ở VN lên đến hơn ½ triệu. Năm 1968, trong kỳ tranh cử tổng thống, ứng cử viên Nixon đã hứa rút hết quân Mỹ ra khỏi VN. Tháng 6 năm 1969 TT Nixon đã tỏ ý này với TT Nguyễn Văn Thiệu ở hội nghị Midway. Trong những năm sau đó những nỗ lực chánh trị và quân sự của chánh quyền Nixon đều nhắm vào mục đích này cũng giống như TT Johnson trước đó bỏ bom Bắc Việt để đưa Cộng Sản vào bàn hội nghị và Hoa Kỳ có cớ rút quân về. Hành quân Hạ Lào năm 1970 và 1971 do TT Nixon thực hiện lời khuyên của TT Eisenhower với TT Kennedy trong ngày lể nhậm chức mà TT Kennedy đã bỏ qua: chận đứng đường tiếp tế qua đường mòn Hồ Chí Minh. TT Nixon ghi lại trong Hồi Ký “the real war”: Hành quân Mỹ Việt ở Cambodia năm 1970 và 1971 thành công đã giúp Hoa kỳ rút quân ra khỏi VN”. Năm 1972, TS Kissinger đi đêm với Trung Cộng, Nga và Bắc Việt với Lê Đức Thọ không màng đến ý kiến của VNCH “Hà Nội, Hoa Thịnh Đốn, Moscow và Bắc Kinh đều đồng ý: quân đội Bắc Việt ở miền Nam VN sẽ không được đề cập đến trong hiệp định Paris”. Kissinger đã đến Sàigòn với văn bản của Kissinger và Lê Đức Thọ. Năm ngày ở Sàigòn từ 17 tháng 10 đến 22 tháng 10 năm 1972 là “thất bại ngoại giao” lớn nhất trong đời như Kissinger tự thú. TS Kissinger đã đụng vào “bức tường kiên cố của thế giới tự do TT Thiệu đã từ chối bản dự thảo lúc đầu là 23 điểm sai biệt, sau lên đến 65 điểm (theo ông Hoàng Đức Nhã) hay 69 điểm (theo ông Nguyễn Xuân Phong)”. Thái độ độc lập của TT Thiệu đã khiến Kissinger xử dụng đủ mánh khoé chánh trị từ đe dọa, vuốt ve, thân thiện hứa hẹn. Tất cả trí tuệ và năng động của ông Kissinger dùng để áp lực đồng minh thay vì để đối phó với kẻ thù. TS Kissinger đã đe dọa TT Thiệu “ông không nên muốn thành thánh tử đạo”, sai tướng Alexander Haig đến Sàigòn dọa “nếu VN không ký thì chúng tôi sẽ có biện pháp tàn bạo” ông Hoàng Đức Nhã đã đoán biện pháp ấy là ám sát.

Muốn TT Nguyễn Văn Thiệu ký hiệp định Paris, ông Kissinger tuyên bố: “có vấn đề thì có giải pháp” (một câu nổi tiếng Kissinger lập đi lập lại trong hơn 40 năm) giải pháp là bỏ bom Bắc Việt áp lực CS trở lại bàn hội nghị sau đó TT Nixon gởi lá thư ngày 16/1/1973 đến TT Thiệu: “Tôi đã nhất định ký hiệp định Paris ngày 27/1/1973 và nếu cần tôi sẽ ký một mình và cho thế giới biết các ông cản trở hòa bình. Kết quả không tránh khỏi là tôi sẽ chấm dứt viện trợ cho VNCH”. Sau khi đe dọa, cả TT Nixon và TS Kissinger hứa hẹn chánh phủ Hoa Kỳ sẽ bảo đảm nền an ninh cho VNCH trong trường hợp Sàigòn đồng ý ký hiệp định Paris ngày 27/1/1973 (sách NX Phong). Trong hồi ký The Real war TT Nixon lặp lại là Hoa Kỳ sẽ dùng biện pháp mạnh và cứng rắn để trả đũa khi Bắc Việt cố ý vi phạm hiệp định Paris.

Từ tháng tư năm 1973 trở đi quyền của TT Nixon yếu dần vì vụ Watergate nên TT Nixon không thực hiện những lời cảnh cáo của ông. Quốc hội Hoa Kỳ ngày 15/8/1973 cấm dội bom Cambodia và đòi hỏi phải có sự chấp thuận của quốc hội trước khi có những can thiệp quân sự trong thời gian đó “suốt năm 74, Nga tiếp tục đổ vũ khí vào Bắc Việt để giúp xâm lăng miền Nam. Tháng 3/1974, Hà Nội đưa 185,000 quân và 500 đến 700 xe tăng vào Nam (The Real war). Nga tiếp tục viện trợ quân sự còn Hoa Kỳ cắt viện trợ cho miền Nam theo đạo luật quốc hội tháng 11 năm 1973. Sau trận Phước Long anh dũng của quân lực VNCH đầu năm 75, Bắc Việt biết Hoa Kỳ không can thiệp nữa nên Hà Nội phát động Tổng Tấn Công mùa xuân 1975 thay vì năm 1976 như dự định. Kết quả đưa đến ngày 30/4/1975.

TT Nixon đổ lỗi cho quốc hội và khen ngợi Quân lực VNCH! "quân lực VNCH đã chứng tỏ tinh thần chiến đấu dũng cảm và đủ khả năng đánh bại quân Bắc Việt từ năm 1972”.

40 năm nhìn lại, chiến tranh Việt Nam đã thay đổi trước ngày TT John F. Kennedy bị ám sát. Năm 2013 tài liệu cho thấy sau Vịnh Con Heo ở Cuba, TT Kennedy đã tính đường rút lui khỏi VN. Từ Johnson đến Nixon con đường bỏ bom ở Bắc Việt và chiến thuật quân sự ở Nam Việt Nam chỉ là chiến thuật rút lui của Hoa Kỳ trái với ý chí của VNCH với miền Nam là tiền đồn chống cộng.

Daniel Ellsberg, nhà báo đã tiết lộ hồ sơ mật Ngũ Giác Đai đã xem “đây là tội ác của Nixon và Kissinger, sự phản bội chứ không phải là thay đổi thế cờ”.

Báo Ngày Nay số kỷ niệm 30 năm hiệp định Paris 1973 đã có bài viết đầu tiên của ông Hoàng Đức Nhã cựu bí thư của TT Nguyễn Văn Thiệu, cựu bộ trưởng Dân Vận Chiêu Hồi người đã trực tiếp đối đầu với TS Kissinger đã tiết lộ những bị mật hậu trường cùng với ông Nguyễn Xuân Phong đại diện cho VNCH từ 1968 đến 1975 trực tiếp đối diện với phe Mỹ, Bắc Việt và giải phóng và nhà báo Việt Nguyên trong cùng số chủ đề với những tài liệu trong sách hồi ký của TT Nixon, TS Kissinger, sách “không hoà bình chẳng danh dự: Nixon, Kissinger và sự phản bội ở VN” của TS Larry Bergman do GS Nguyễn Mạnh Hùng dịch đã trả lời được câu hỏi: “Mỹ có thật sự cam kết bảo vệ miền Nam rồi bỏ rơi hay TT Nguyễn Văn Thiệu đã bịa đặt để chạy tội?”

7 năm trước, tôi có dịp được nói chuyện riêng hai lần với cựu thủ tướng Trần Thiện Khiêm. Ông đã nói cho tôi “Anh không thể khui những chuyện bí mật từ tôi”. Tôi vẫn biết ông nổi tiếng là “tủ lạnh” giữ kín những bí mật lịch sử từ năm 1963, nhưng ông cho tôi biết tài liệu trong cuốn sách “Khi đồng minh tháo chạy” của TS Nguyễn Tiến Hưng do ông cung cấp và “Nguyễn Tiến Hưng đã có công lớn trong hiệp định Paris”. Khi TT Nguyễn Văn Thiệu còn sống, cuốn “Hồ sơ mật Dinh Độc Lập” của ông Nguyễn Tiến Hưng đã do các anh em thương gia trẻ Houston ấn hành làm vui lòng ông Thiệu về những sự thật được ông xác nhận nhưng cuốn “Khi đồng minh tháo chạy” viết sau khi TT Thiệu mất có nhiều điểm sai vì đó tôi có bài viết phê bình trên Ngày Nay và đã làm cho ông Nguyễn Tiến Hưng không được vui nhưng câu của cựu Đại tướng Trần Thiện Khiêm đã khiến tôi nói ngay là những điều ông nói đã khác những gì tôi được biết qua sách của Nixon, Kissinger, Larry Bergman, Nguyễn Phú Đức, các bài hồi ký của ông Nguyễn Văn Ngân phụ tá của TT Thiệu cũng như khác những gì TT Nguyễn Văn Thiệu, cựu đại sứ Bùi Diễm, ông Nguyễn Xuân Phong và ông Phan Hòa Hiệp đã nói cho tôi biết về vai trò của ông Hoàng Đức Nhã trong hiệp định Paris 1973. Cựu thủ tướng Trần Thiện Khiêm đã im lặng không trả lời, im lặng là đồng ý chăng? Tôi chỉ muốn cái gì của lịch sử trả về với lịch sử. Năm ngoái tôi có dịp nói chuyện với ông Hoàng Đức Nhã, tôi hỏi ông “tại sao TT Nixon và Kissinger có thể bội hứa với VNCH dễ dàng?”. Theo ý ông Nhã là vì hiệp định Paris 1973 đã không được phê chuẩn bởi quốc hội Hoa Kỳ. Năm nay nhân dịp hiệp định nguyên tử giữa Hoa Kỳ và Iran, tôi tìm thấy câu trả lời theo sự tìm hiểu của tôi: TT Nixon đã xem hiệp định Paris như là một thỏa hiệp chánh trị chứ không phải là hiệp định. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh theo chủ thuyết “One voice Doctrine” một tiếng nói của tổng thống có quyền thỏa hiệp mà không qua quốc hội vì vậy TT Nixon đã bội hứa với VNCH.

Hai mươi năm trước tôi có dịp về Việt Nam, đi qua nghĩa trang Biên Hòa cũ vắng bóng bức tượng Tiếc Thương đã làm tôi nhớ đến người lính VNCH và câu của ký giả chiến tranh nổi tiếng Jean Lartéguy “khác biệt giữa chiến thắng và chiến bại khác nhau một trời một vực. Thua trận, người lính phải chịu tất cả những phán xét khắc nghiệt của lịch sử ngược lại những kẻ chiến thắng được lịch sử tha thứ cho tất cả những tội ác và bạo lực trong thời chiến tranh”.

Lính VNCH chịu nhục vì TS Kissinger bán đứng Việt Nam vì quyền lợi (TS Kissinger đang làm tham vấn cho công ty China Adventure tiếp tục theo quyền lợi Trung Cộng) và vì lỗi của Đại tướng William Childs Westmoreland.

Trong cuốn sách của Lewis Sorley ông đã cho thấy những lỗi lầm của tướng Westmoreland. Quân lực VNCH anh dũng đã chịu thảm cảnh gây ra do tướng Westmoreland. Năm 1963, ngày 13 tháng 12, sau đảo chánh TT Ngô Đình Diệm, vị tướng trẻ tuổi được gởi qua VN dưới quyền tướng Harkins tư lệnh quân Hoa Kỳ ở VN (COMVS-MS) sau đó ông thay thế tướng Harkins làm chỉ huy trưởng. Ông là trung tướng trẻ tuổi nhất quân đội nên tánh kiêu ngạo thêm vào đó người cao lớn nên ông đã đối xử với tướng lãnh và sĩ quan VNCH như là các sinh viên trường sĩ quan võ bị West Point. Làm tư lệnh quân đội Hoa Kỳ ở VN mà không hề gặp tổng thống Lyndon Johnson trong những năm Johnson nhậm chức. Từ ngày 1/8/1964 sau khi được đại sứ Maxwell Taylor gắn lon bốn sao, ông không hề hỏi ý kiến các tướng lãnh VNCH, ông không cần biết chiến lược Hoa Kỳ có phù hợp với những điều kiện phức tạp ở VN, chánh sách Hoa Kỳ hóa chiến tranh VN (chữ của đại sứ Bùi Diễm), đã tạo ra chữ American War. Tướng Westmoreland xem thường Quân Lực VNCH: “các anh có thể chiến đấu nhưng chúng tôi không muốn các anh cản đường” Từ 1966, quân Hoa Kỳ chủ động, quân đội VNCH không được tân trang cho đến sau trận Mậu Thân nhờ phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ phàn nàn. Chiến dịch “dùng địch diệt địch” của ông gây thất nhân tâm và cho phe phản chiến có cơ hội chống đối khi nhìn thấy những hình như Trần Kim Phúc bị bom Napalm chụp bởi ký giả Huỳnh Công Út (được tuần báo Vanity Fair phỏng vấn cho 40 năm chiến tranh VN kết thúc) hay gây ra thảm cảnh Mỹ Lai do Trung Úy William Calley (ký giả Seymour Hersch trở về Mỹ Lai kỷ niệm 40 năm chiến tranh VN để VC có dịp tuyên truyền về hơn 500 nạn nhân và quên đi những tội ác của VC như mồ chôn tập thể ở Huế Tết Mậu Thân). Các tướng Fred Weyland tư lệnh ở VN và Norman Schwarkoff đã chê tướng Westmoreland và trường võ bị West Point không nhắc đến tướng Westmoreland.

Nguyên nhân gần dẫn đến sự kết thúc chiến tranh Việt Nam là “cuộc triệt thoái Tây Nguyên”. Hồi chủ nhiệm Trọng Kim còn sống, mỗi 30 tháng tư chúng tôi đều tự đặt câu hỏi “TT Nguyễn Văn Thiệu đã tự ra lệnh hay vì áp lực của Mỹ “câu hỏi chưa có câu trả lời và bà Nguyễn Văn Thiệu cho tôi biết ông không viết hồi ký để lại.

Lịch sử sẽ phê phán hai nền Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Một lịch sử trung thực chứ không phải lịch sử như sử gia Toynbee viết: "lịch sử là ghi nhận những nói dối của kẻ chiến thắng”, một lịch sử của đảng Cộng Sản viết cho dân Việt Nam học. Riêng về T.T. Nguyễn Văn Thiệu, quan điểm quần chúng khắt khe về ông trong thập niên đầu sau 30 tháng 4 năm 1975 đã thay đổi. Báo chí đã dùng những lời lẽ không lịch sự khi nói về ông, có lẽ họ không quên những câu tuyên bố của ông “hy sinh đến giọt máu cuối cùng” trước ngày 30 tháng 4 hay lời kêu gọi lập chiến khu chống cộng của phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ. Đến năm 1990 khi ông xuất hiện ở Nam California, giới truyền thông bắt đầu lắng nghe dù còn phê bình nặng lời. Người Việt bắt đầu hiểu qua “Hồ sơ mật Dinh Độc Lập”, người lãnh đạo VNCH như võ sĩ lên đài một tay đánh một tay bị đồng minh trói, đằng sau lưng bị đánh lén bởi thành phần thứ ba phản chiến. Năm 1990 ông đến ở Galveston một tuần, ngày chúa nhật ông đi lễ nhà thờ ở Port Arthur nhằm ngày lễ tro, dân Việt Nam đi lễ đã đón và chào ông như ngày ông còn làm tổng thống không có cảnh chửi bới hay phỉ nhổ như người ta tưởng tượng. Sống lưu vong ông không có một đời sống xa hoa như các lãnh tụ lưu vong khác như tổng thống Ferdinand Marcos của Phi Luật Tân, hay như người làm chủ 16 tấn vàng như lời tuyên truyền của Việt Cộng (theo như sách “Bên thắng cuộc” của Huy Đức số vàng đem về Bắc hay theo Nguyễn Bửu Xuân báo Thanh Niên viết: ngày giao kho bạc cho “quân giải phóng” số vàng 16 tấn vẫn còn nằm trong kho không bị tẩu tán hay nằm ở phi trường Tân Sơn Nhất khi quân Văn Tiến Dũng vào như ông Nguyễn Tiến Hưng viết).

Ông nói chuyện bình dị dễ hiểu, xem lại phim 10,000 ngày chiến tranh VN, người xem thấy ông chịu học nói cả về diễn văn lẫn Anh văn hơn ông Nguyễn Cao Kỳ. Ông là người nhã nhặn. Tôi được xem những bản tường trình của đại sứ Bùi Diễm gởi về cho TT Nguyễn Văn Thiệu từ Hoa Thịnh Đốn, những lời viết trả lời của TT Thiệu lễ độ đối với người lớn tuổi dù ông bất đồng quan điểm với ông Bùi Diễm (TT Nguyễn Văn Thiệu đã sai ông HĐ Nhã qua Mỹ cách chức ông Bùi Diễm năm ấy ông Nhã 29 tuổi)

Lịch sử trớ trêu, sau khi ông mất năm 2001, người Việt hiểu rõ ông hơn nhờ những sách hồi ký cả Việt và Mỹ. Người Việt sống trong chế độ Cộng Sản tham nhũng trong 40 năm cũng đã hiểu ông không tham nhũng, gia đình trị như đảng Cộng Sản. Tham nhũng là cái cớ của chánh quyền Hoa Kỳ để rút lui khỏi VN như cái cớ Hoa Kỳ đang dùng ở A Phú Hãn. Câu nói ngày ông còn cầm quyền không ai nghe “Đừng tin những gì Cộng Sản nói hãy nghe những gì Cộng Sản làm” bây giờ trở thành ca dao tục ngữ. Một câu nói khác của ông đã đi vào lịch sử, trong trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974 khi VNCH đã bị cắt viện trợ quân sự, ông ra lệnh: “không để một tấc đất mất vào tay địch”, trận đánh với anh hùng Ngụy Văn Thà đã chứng tỏ TT Nguyễn Văn Thiệu và quân lực VNCH là những người yêu nước. Sau 40 năm, dân VN cả hai miền đều rõ ai yêu nước ai bán nước.

Bốn mươi năm nhìn lại ngày 30 tháng 4, 1975, Hoa Kỳ bỏ Việt Nam trở thành siêu cường duy nhất trên thế giới (xem 2015: Trật tự thế giới mới) và Đảng Cộng Sản Việt Nam cầm quyền không thay đổi bản chất. Năm 1995 (sau 20 năm thất bại trong Hòa Bình) khi Hoa Kỳ sắp bang giao với Việt Nam, tôi có dịp về thăm nhà. Các ông lớn trong đảng CS nhũn nhặn hứa sẽ thay đổi những “anh” như Tư Sang chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố hứa “sẽ thay đổi từ từ” Họ ngại một thay đổi như Đông Âu năm 1989 nhất là thay đổi với cái đầu Nicolae Ceausesca ở Hung Gia Lợi. Ngoài Bắc, ông Vũ Khiêu (quốc phụ, chú Trường Chinh) nhắc đến cải cách ruộng đất và những lỗi lầm của đảng, trong Nam ông Phạm Xuân Ẩn gián điệp hoàn hảo (không hoàn hảo gì khi ngày học xong ở California về nước ông định quăng hộ chiếu để ở lại Mỹ khi đứng trên cầu Golden Gate vì sợ chánh quyền Ngô Đình Diệm bắt, lúc nào cũng sợ VNCH biết được là điệp viên) không được tin dùng khi các ông “Cách mạng thật” lên cầm quyền phải ra Bắc học tập một thời gian vì bị nghi ngờ thân Mỹ đã luôn luôn hỏi bạn bè “bên ngoài họ nghĩ gì về ông”. Sợ thay đổi nhưng sau 1995, bang giao với Hoa Kỳ, đảng một lần nữa được “chánh sách ổn định Đông Nam Á” của TS Kissinger bảo đảm nên chỉ cho dân làm kinh tế mà không được làm chánh trị. Làm kinh tế với định hướng xã hội Chủ nghĩa, đảng CSVN đi vào con đường nô lệ đảng CSTQ thay vì nô lệ Mác Lênin cũ kỷ. Jean Paul Sartre, triết gia Pháp, sau chiến tranh Việt Nam, tỉnh mộng khi nhìn thấy cảnh khổ thuyền nhân Việt Nam đã viết: “Chủ nghĩa Cộng Sản như con chó chết” (Le chien mort). Con chó chết ấy đang vẫy đuôi phá hoại xã hội Việt Nam càng ngày càng ung nát với quyền lợi đảng.

Gần đây nhà báo Huy Đức tác giả “Bên thắng cuộc” đã đề nghị làm “bức tượng hòa giải”. Đề nghị này quá sớm. Các quốc gia Đông Âu dù đã thoát khỏi chế độ Cộng Sản vẫn kêu gọi một “bức tượng nạn nhân Cộng Sản”. Bức tượng ấy ở Việt Nam sẽ tưởng niệm các nạn nhân Cộng Sản cả hai miền: Những nạn nhân cải cách ruộng đất năm 1954, nạn nhân Mậu Thân Huế, nạn nhân chiến tranh Việt Nam, nạn nhân tù cải tạo, tù chánh trị, nạn nhân trên những chuyến tàu vượt biển, nạn nhân tham nhũng, nạn nhân của nạn côn đồ cướp nhà cướp đất, nạn nhân của một chế độ vô luật pháp.v.v…

Viết đến câu kết luận này, xem lại lịch tháng 4 năm 1975, hôm nay 21 tháng 4, TT Nguyễn Văn Thiệu từ chức trao quyền cho cụ Phó Tổng Thống Trần Văn Hương.

Việt Nguyên
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Từ Bàn Viết Houston

Post by uncle_vinh »

Một Thoáng Hương Xưa:
Bà Thượng Nghị Sĩ Phan Nguyệt Minh


Trời Houston, những tháng hè đổ lửa, bỗng đổ mưa về hôm nay ngập đường ngập lối khiến tôi nhớ về tháng 7 năm ngoái, trời đã mưa nơi trại hè Hướng Đạo Thẳng Tiến 10 tại đất trại Hướng Đạo Camp Strake ở Conroe vùng Bắc Houston. Trại Hướng Đạo, ngày khai mạc, với những giọt nước mắt vui mừng của người Trưởng nữ Hướng Đạo Phan Nguyệt Minh ngồi trên chiếc xe lăn. Năm nay, trại Bách Hợp tại Portland Oregon, vào cuối tháng 8, sẽ vắng bóng một nữ Hướng Đạo trưởng niên kỳ cựu của phong trào, trưởng Phan Nguyệt Minh, cựu hội trưởng hội nữ Hướng Đạo Việt Nam trong thập niên 1970.

Ngày 10 tháng 8 năm 2015, tôi đến tiễn đưa trưởng cùng với các Hướng Đạo sinh trong bộ đồng phục tôi đã mặc 13 năm trước khi tiễn trưởng Nguyễn Văn Thơ, bộ đồng phục như kỷ vật của những người bạn và đàn anh Hướng Đạo đã ra đi, chiếc áo của linh mục Huỳnh người bạn trẻ Hướng Đạo, khâu khăn quàng của trưởng Trương Trọng Trác, Trọng Kim của báo Ngày Nay, khăn quàng trại Thẳng Tiến 7 của trưởng Nguyễn Văn Thơ do chính tay bà Phan Nguyệt Minh, Pauline Văn Thơ, trao cho tôi người em Hướng Đạo.

Ngồi trong nhà thờ, cạnh bức hình trên quan tài, nghe các cha giảng, nghĩ lại về quãng đời và thời gian đã qua trong nửa thế kỷ từ ngày tôi biết bà, bà chị Hướng Đạo của tôi qủa là một người đàn bà Việt Nam đẹp. Người phụ nữ nổi tiếng trong cả hai thời đệ nhất và đệ nhị cộng hòa Việt Nam là người miền Nam, 86 năm trước sinh ra tại thôn Thạnh Lộc, Gia Định lớn lên theo giáo dục Pháp, học trường tiểu học dành riêng cho con gái Ecole des Jeunne Filles, lên Đà Lạt học Couvent des Oiseaux qua Pháp tốt nghiệp Lyceé des Jeunes Filles, St Germaine en Laie. Trong thời đại của bà, năm 1949 qua Mỹ học ở Rochester New York tốt nghiệp nghành xã hội học, sau lấy bằng cao học xã hội ở đại học NYU và thêm một năm nghiên cứu tại Đại học Yale, bà là một trong những phụ nữ trí thức xuất xắc của miền Nam. Tuy là một phụ nữ học cao nổi tiếng trên nhiều lãnh vực từ giáo sư Anh Văn trường trung học Petrus Trương Vĩnh Ký đến đại học Văn Khoa và sư phạm qua chính trị, bà vẫn giữ được sắc thái của một phụ nữ Việt Nam nổi tiếng đẹp trong chiếc áo dài tha thướt.

Trong hai thập niên 1960 và 1970, miền Nam Việt Nam có nhiều phụ nữ nổi tiếng. Tôi kém bà Nguyệt Minh 20 tuổi, ngày bà là Dân biểu đệ nhất Cộng hòa (1959-63), tôi là học sinh trung học, thế hệ sau của chúng tôi chỉ biết người đàn bà nổi tiếng nhất của nền đệ nhất cộng hòa, bà Trần Lệ Xuân, vợ ông cố Ngô Đình Nhu, một người đàn bà đẹp, thiếu cách cư xử ngoại giao đã làm mất lòng đại sứ Hoa Kỳ Frederick Nolting Jr và Cabot Lodge đại diện cho TT John F. Kennedy khi họ đến than phiền chính quyền T. T. Ngô Đình Diệm đã phí phạm 2 tỷ Mỹ Kim viện trợ (sách “Sàigòn đã mất” của Peter Arnett) sau đó bà Nhu thiếu ngoại giao đã làm hại chính nghĩa Việt Nam Cộng Hòa khi qua Hoa Kỳ đến Liên Hiệp Quốc nhục mạ nhà sư tự thiêu Thích Quảng Đức là “Barbeque Monk”.

Qua đến đệ nhị cộng hòa, với vai trò Thượng nghị sĩ quốc hội (từ 1967-1973) bà Phan Nguyệt Minh đã là một ngôi sao sáng được các giới từ báo chí đến ngoại giao và chính trị trong và ngoài nước chú ý. Có lẽ ngôi sao của bà chỉ kém bà Tuyết Mai, đệ nhị phụ nhân, vợ thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ phó Tổng Thống. Bà Tuyết Mai được báo chí ngoại quốc khen là một người đẹp có nhan sắc quyến rũ (glamorous) nhưng bà Tuyết Mai đã để lại nhiều tiếng không được đẹp trong thời gian ông Nguyễn Cao Kỳ làm phó Tổng Thống. như trong thời gian theo chồng qua hội nghị Paris bà đã làm người mẫu chụp hình, tướng Collin Powell đã than phiền trong hồi ký là tướng Kỳ đã không làm nhiệm vụ trưởng phái đoàn thương thuyết của VNCH chỉ lo đi trượt tuyết với Tuyết Mai khác với bà TNS Nguyệt Minh không mang tiếng xấu trong suốt sáu năm làm thượng nghị sĩ.

Báo chí Sàigòn thời ấy chọc ghẹo, gọi bà là bà nghị sĩ “trăng sáng vườn chè”. Hồi trẻ tôi hay theo giới báo chí, viết “chuyện phiếm” cho báo Chính Luận thấy biệt hiệu “trăng sáng vườn chè” rất dí dỏm ngộ nghĩnh. Năm ngoái tôi hỏi bà chị có bực minh khi bị báo chí gọi là bà “Trăng sáng vườn chè” không? bà trả lời: "Chị chỉ thấy vui vui” câu trả lời cho thấy một tinh thần tự do báo chí, dân chủ.

Bà và bà thượng nghị sĩ Nguyễn Phước Đại (tên thật là Nguyễn thị Quỳnh Anh), vợ của bác sĩ Nguyễn Phước Đại, giáo sư y khoa giải phẫu đại học Y khoa Sàigòn, giám đốc bệnh viện Đô Thành) đã là những hãnh diện cho giới phụ nữ miền Nam. Bà Nguyễn Phước Đại nổi tiếng trong vụ án cô Qườn đốt chồng, sau lên làm đến phó chủ tịch Thượng Viện là một luật sự giỏi, sau năm 1975 chính quyền CSVN phải nhờ đến bà trong những vụ tranh cãi về Hoàng Sa và Trường Sa ở Liên Hiệp Quốc. Hai bà thượng nghị sĩ có học vấn cao đã đối đầu với hai người đàn bà nổi tiếng của Cộng Sản, khác hẳn về vóc dáng lẫn trình độ trí thức, nữ tướng Nguyễn Thị Định và bà Nguyễn Thị Bình đại diện Mặt trận giải phóng miền Nam trong hiệp định Paris. Hai bà Nguyệt Minh và Quỳnh Anh đã cho thấy miền Nam không cần phong trào phụ nữ đòi quyền sống (do Việt Cộng giựt dây). Phụ nữ sống và lớn lên ở miền Nam, một xã hội tự do dân chủ (dù không hoàn toàn như Hoa Kỳ) vẫn vươn lên, bình đẳng với nam giới qua nền giáo dục ở các nghành đại học chứ không qua đấu tranh giai cấp bằng bạo lực cách mạng trong xã hội tự do giả tạo miền Bắc Việt Nam.

Bà là người đã “khóc cười theo mệnh nước nổi trôi”, trôi theo giòng lịch sử. Những năm sau khi Trưởng Nguyễn Văn Thơ, người anh cả trong phong trào Hướng Đạo qua đời tôi thường hay đến nhà thăm bà chị. Ở phòng khách là những bức hình của những năm tháng ngày bà còn rất trẻ, những bức hình lịch sử gợi lại những tháng năm trong hai mươi năm lịch sử của hai nền cộng hòa, có lẽ bà là một trong những chứng nhân lịch sử hiếm có.

Năm 30 tuổi, bà dân biểu Phan Nguyệt Minh đã gặp T.T. Eishenhower với sứ mạng của T.T. Ngô Đình Diệm giao phó. Bức hình ngày bà còn rất trẻ trong dáng áo dài gợi đến hình ảnh bà Ngô Đình Nhu nhưng với nụ cười nhã nhặn được lòng T.T. Eishenhower hơn. T T Eisheinhower là người đã từ chối giúp Pháp trong chiến tranh Việt Nam trong trận Điện Biên Phủ năm 1954 nhưng sau đó thay đổi ý kiến, viện trợ quân sự cho Pháp và diễn văn lịch sử tháng 7 năm 1954, với chủ thuyết cờ Domino, T.T. đảng Cộng Hòa Eishenhower đã tiếp tục làm cố vấn cho hai T.T. đảng Dân chủ kế tiếp John F. Kennedy và Lyndon B. Johnson.

Năm 32 tuổi, bà lại được đi gặp T.T. trẻ tuổi John F. Kennedy cũng với sứ mạng ngoại giao. Bức hình cho thấy nụ cười thân thiện của T.T. John F. Kenndy trước khi bị ám sát trong tháng 11 năm 1963 một tổng thống Dân chủ đã tăng gấp ba viện trợ quân sự và kinh tế cho chính quyền Ngô Đình Diệm cũng như tăng quân nhưng đồng ý đứng ngoài (như đại sứ Cabot Lodge thú nhận với nhà báo Peter Arnett) để các tuớng lãnh đảo chánh T.T. Ngô Đình Diệm.

Bức hình với T.T. Johnson đánh dấu Hoa Kỳ đổ thêm quân vào Việt Nam, hứa hẹn sẽ đem quân Hoa Kỳ về nước, oanh tạc Bắc Việt sau Tết Mậu Thân 1968.

Bức hình với T.T. Richard Nixon đánh dấu đoạn kết thúc chiến tranh Việt Nam sau hiệp định Paris tháng 1 năm 1973, năm bà 50 tuổi không còn trẻ như ngày bà gặp T.T. Eishenhower. Những nụ cười ngoại giao không thay đổi được sự phản bội của người Mỹ. Những người Mỹ có tinh thần như nhà văn Hoa Kỳ, tốt nghiệp Columbia, gốc Do Thái Isaac Asimov, viết truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng với đại tác phẩm “Foundation and Empire”, tin tưởng vào quốc gia với nền tảng vững chắc, tin tưởng vào lịch sử tâm lý, thua bọn đế quốc đỏ vì chiến thuật nhưng sẽ chiến thắng trên con đường dài. Hoa Kỳ thua trước nhưng sau thắng khối Cộng Sản. Đảng Cộng Hòa với các T.T. Nixon và Ford phản bội Việt Nam, không quay lại can thiệp khi quân Cộng Sản Bắc Việt xăm phạm hiệp định Paris, như đã hứa với đồng minh. Hoa Kỳ thắng trên đường dài còn Việt Nam Công Hòa phải chịu thân phận nhược tiểu.

Bà Phan Nguyệt Minh theo đảng Cộng Hòa với lý tưởng của những người Cộng Hoà Thiên Chúa Giáo, khuynh hướng bảo thủ hữu khuynh xem chủ thuyết Cộng Sản và con người Cộng Sản như Quỷ và Satan, chiến tranh lạnh của Hoa Kỳ là chiến tranh của tự do chống độc tài. Đại diện cho khuynh hướng Cộng Hòa Thiên Chúa Giáo là Mục sư Reinhold Niebur. Những lời cầu nguyện của mục sư Niebur được đọc bởi đảng Cộng Hòa và ông cũng ảnh hưởng đến T.T. Barrack Obama, ông chủ trương không cần xin Chúa, người có đạo không thụ động. Thánh thiện và quỉ quái là xung đột lớn trong đời sống hàng ngày và trong lịch sử nhân loại. Chiến thắng luôn luôn theo sau chiến bại. Ông Niebur cảnh cáo Hoa Kỳ phải xem chừng Stalin, đôi khi tư tưởng chao đảo khi chứng kiến những cuộc cách mạng Marxist thành công năm 1932, 1934 và 1959 nhưng ông đã chứng kiến nền dân chủ Hoa Kỳ tưởng thất bại nhưng bền vững qua bao nhiêu thử thách.

Con người chính trị của bà tiếp tục ở Mỹ, sau năm 1975 với lập trường Cộng Hòa bảo thủ, giữ chức cố vấn và chủ tịch liên đoàn cử tri Cộng Hòa người Mỹ gốc Việt. Tiếng nói của bà Phan Nguyệt Minh tranh đấu cho nhân quyền và tư do cho Việt Nam trước ngày Hoa Kỳ bang giao với Việt Nam cùng với các bà Khúc Minh Thơ, Nguyễn Văn Bông đã được chính quyền Hoa Kỳ lắng nghe. Bức hình của bà đứng với T.T. Geoge H. Bush (Bố) đánh dấu một thời chuyển tiếp khuynh hướng chính trị Hoa Kỳ.

Bà không viết hồi ký như một lần Trọng Kim báo Ngày Nay đã đề nghị mặc dù bà là một chứng nhân quan trọng trong hai chế độ đệ nhất và đệ nhị Cộng Hòa Việt Nam. Những nhân vật ngoại giao và khuôn mặt chính trị lớn, như đại sứ Bùi Diễm, đã viết nhiều hồi ký nhưng không hiểu tại sao bà không động tâm vì khiêm tốn hay muốn giữ bí mật? Dù vậy, nhờ bà mà tôi biết được nhiều và kiểm điểm lại được nhiều sự kiện có khi đúng có khi sai trong những cuốn hồi ký nổi tiếng của các tác giả đã xuất bản.

Bà không viết sách nhưng sách báo đã viết nhiều về bà Thượng Nghị Sĩ nổi tiếng Phan Nguyệt Minh. Tờ Christian Science Moniton năm 1983 đã viết về bà giám đốc và điều hành chương trình định cư tị nạn tại Houston Texas văn phòng hội USCC (Hội Từ thiện công giáo). Báo Houston Chronicle năm 2005 đã nhắc lại công của bà giúp định cư hơn 3000 người việt qua hai cơ quan USCC và YMCA. Sách của trùm CIA Mỹ William Edgar Colby (Shadow Warrior) đã nhắc đến tên bà. Trong thời chiến tranh Viêt Nam, giám đốc CIA Colby đã “mê bà” đến nỗi T.T. Nguyễn Văn Thiệu có lúc nghi ngờ bà là CIA. (Tôi có dịp tâm tình với bà một lần như chị em trong nhà và hỏi bà về lời đồn này, bà cười và thanh minh lời đồn thất thiệt. Sau này xem lại danh sách những người đã làm CIA và thấy không có tên bà Phan Nguyệt Minh). Về tình yêu của ông Colby, bà chị tôi đã cười trả lời: “Không ai giỏi và dễ thương như anh Thơ của chị”.

BS Clement Hall trong sách “Hồi ký của một y sĩ” trong thời gian ở Việt Nam có viết về BS Nha khoa Nguyễn Văn Thơ, ông cho rằng giáo sư Nha Khoa Nguyễn Văn Thơ lên chức nhờ vợ bà Pauline Nguyễn Văn Thơ gia nhập “phong trào phụ nữ liên đới” của bà Ngô Đình Nhu nhưng không gia nhập đảng Cần Lao sau này là Thượng Nghị Sĩ thân với T.T. Nguyễn Văn Thiệu. Giáo sư Nguyễn Văn Thơ lúc ấy là Phó viện trưởng viện đại học Sàigòn phụ tá GS Y khoa Trần Quang Đệ sau ông lên làm viện trưởng và bộ trưởng bộ quốc gia giáo dục. Khoảng thời gian trước năm 1975, qủa tình xã hội Việt Nam có quá nhiều thiên kiến, con người nhìn nhau qua nhiều cặp kính màu: Phật Giáo, Công Giáo, người Nam, người Bắc, Bác sĩ, Nha Sĩ; cho nên ông bộ trưởng Nguyễn Văn Thơ bị nghi ngờ khả năng ngay đến Clement Hall cũng nhìn ông qua cặp kính màu. Bốn mươi năm sau nhìn lại học vấn của BS Nguyễn Văn Thơ tốt nghiệp tối ưu trường Petrus Ký, tốt nghiệp đại học Oxford rồi qua Havard lấy bằng tiến sĩ Nha Khoa, đêm hôm ấy ở phòng khách tôi cúi đầu kính phục ông Trưởng Hướng Đạo của tôi.

Bà Phan Nguyệt Minh là một trong những tiếng nói của cộng đồng Việt Nam ở Houston từ năm 1975 nhờ quá khứ Thượng Nghị Sĩ ở Việt Nam, giám đốc định cư của USCC, hoạt động trong đảng Cộng Hòa và là sáng lập viên Hội ái hữu Việt Nam ở Houston tiền thân của hội Cộng Đồng Việt Nam ở Houston. Tờ Houston Chronicle năm 2005 ngoài việc nhắc đến công giúp người Việt Nam tị nạn còn nhắc đến bà Pauline Văn Thơ cũng là người tị nạn khi bà đang đi dự hội nghị quốc tế phụ nữ ở Paris tháng 4 năm 1975. Hai ông bà đoàn tụ ở Oakland California. Trong vụ ký giả Đạm Phong bị ám sát ở Houston, các tờ báo lớn cũng phỏng vấn bà Pauline Văn Thơ.

Tôi còn nhớ năm đầu tiên về Houston, chợ Tết Việt Nam đã được tổ chức ở khu thương mại Sharptown do hội Ái hữu Việt Nam của bà tổ chức và những đêm tiệc Tết Tây cũng do hai ông bà đứng ra tổ chức. Bà là người hoạt động tích cực từ lãnh vực quốc gia đến địa phương. Trong những tổ chức bao giờ cũng có lá cờ vàng ba sọc đỏ Việt Nam Cộng Hòa và hát quốc ca. Bà không phục vụ trong quân đội nhưng bảo vệ lá cờ khác với những ý nghĩ xem “lá cờ vàng được Mỹ cho treo ở các khu thương mại Việt Nam thì cũng như những lá cờ khác được treo ở các đại lý bán xe hơi!”. Lá cờ vàng ba sọc đỏ mang hồn nước, hồn chiến sĩ của hàng triệu chiến sĩ Việt Mỹ trong chiến tranh Việt Nam đã khiến tôi và hàng trăm ngàn thuyền nhân tỵ nạn ứa nước mắt khi nhìn thấy ngày lên đảo tị nạn sau bao ngày lênh đênh trên biển cả. Lá cờ ấy được dương lên ở các nơi và trong những buổi họp Mỹ Việt do công những người Việt thầm lặng không giữ những chức vụ to lớn trong cộng đồng người Việt ở Houston.

Ngày 12 tháng 7 năm 2015, một chuyện đáng tiếc đã xảy ra ở St Jose, California khi ban tổ chức họp mặt giữa đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Ted Osius và cộng đồng Việt Nam ở St Jose thu giữ khăn choàng có cờ vàng và cờ Hoa Kỳ của chị Đỗ Minh Ngọc. Người ta đã viện dẫn chính sách của chính phủ Hoa Kỳ để không cho treo cờ VNCH trong các buổi họp giữa đại sứ Ted Osius và cộng đồng VN ở Nam và Bắc California.

Tôi và bà Pauline Văn Thơ (hai tuần trước khi mất) đã có dịp bàn với nhau về câu chuyện không thể xãy ra ở Houston, Texas đã xảy ra ở St Jose, California. Lá cờ vàng ba sọc đỏ VNCH được bảo vệ ở Houston và Texas. Lá cờ ấy được treo ở tượng đài chiến sĩ, ở các thương xá, trong các buổi họp, trong những buổi diễn hành. Lá cờ ấy không được đặt thành vấn đề trong những buổi họp với cựu Đại sứ Hoa Kỳ ở Việt Nam. Michael Michalak hay Tổng lãnh sự Mỹ tại Sàigòn, ông Lê Thành Ân. Năm 2003, thành phố Houston qua bà thị trưởng Annise Parker đã có nghị quyết công nhận lá cờ vàng cũng như tiểu bang Texas qua công của dân biểu tiểu bang Hubert Võ chỉ treo lá cờ vàng ba sọc đỏ ở các trường đại học dù các trường ấy có nhiều du học sinh Việt Nam. Quyết định của đại sứ Ted Osius và ban tổ chức, theo tôi nghĩ, chỉ là quyết định cá nhân như lời đính chính của bộ ngoại giao Hoa Kỳ. Các ông này đến St Jose đã bị ảnh hưởng của các thành phần khuynh tả Berkeley và đám người Việt theo Cộng Sản ở St Jose như bác sĩ Bùi Duy Tâm người đã chủ trương bỏ bài quốc ca VNCH (bài viết năm 1993 nhắc lại trong phỏng vấn trên U tube năm 2009) cùng lá cờ VNCH.

Trong khi vụ lá cờ vàng ba sọc đỏ vẫn còn sôi nổi ở California thì lá cờ đỏ sao vàng của CSVN treo ở phi trường quốc tế George H. Bush ở Houston đã bị kéo xuống và cất vào kho. Lá cờ đỏ sao vàng chỉ được treo ở những cơ sở ngoại giao như tòa tổng lãnh sự, tòa đại sứ, trụ sở Liên Hiệp Quốc. Ở những nơi khác lá cờ vàng ba sọc đỏ được tôn trọng. Các công dân Việt gốc Mỹ đi làm đóng thuế, đi bầu đã có tiếng nói với chính quyền Mỹ. Công gỡ lá cờ đỏ sao vàng cất vào kho là công của nghị viên thành phố Richard Nguyễn. Bà Pauline Văn Thơ nếu còn sống chắc sẽ có một lá phiếu bầu cho ứng cử viên Richard Nguyễn trong kỳ bầu cử tới!

Mùa hè năm 1970 là một mùa hè đẹp với trại Giữ Vững Suối Tiên ở Thủ Đức đây cũng là trại họp bạn Hướng Đạo toàn quốc cuối cùng. Có lẽ trại cũng là một kỷ niệm đẹp trong đời của ông bà Nguyễn Văn Thơ với ông là Hội Trưởng Hội Hướng Đạo còn bà là Hội trưởng Hội Nữ Hướng Đạo. Trại họp bạn lớn thành công trong thời chiến tranh với bài hát theo giòng lịch sử, từ Phạm Duy, Trịnh Cộng Sơn, những người Hướng Đạo năm ấy đã hát bài “Việt Nam quê hương ngạo nghễ” của Nguyễn Đức Quang mỗi ngày và trong đêm lửa trại khai mạc và bế mạc:

“Ta như nước dâng dâng tràn có bao giờ tàn
Đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang
…..
Ta khuyên cháu con ta còn tiếp tục làm người
Làm người huy hoàng phải chọn là người dân Nam”


Trưởng Phan Nguyệt Minh đã chọn làm người Việt Nam, đã giữ tinh thần Hướng Đạo từ Việt Nam qua đến đời tị nạn với những hoạt động xã hội giúp ích. Ngày 10 tháng 8 năm 2015, chúng tôi các Hướng Đạo sinh đã đến tiễn Trưởng Hướng Đạo 86 tuổi, không còn trẻ như ngày: “Nào anh em ta cùng nhau xông pha lên đường, kiếm nguồn tươi sáng ta cùng đồng lòng điểm tô non sông” bằng bài hát “Nguồn thật”:

“Anh em chúng ta chung một đường lên
Chung một đường lên đến nơi nguồn thật
Nguồn thật là đầy sức sống vô biên
Sống vô biên là sống cùng tao vật”


Tạo vật đã đón một người phụ nữ đẹp Việt trở về.

Việt Nguyên
21/8/2015
Post Reply