Tháng Tư Đen và Đời Đá Vàng

Làm đẹp Diễn Đàn Kỹ Thuật

Moderator: HungNguyen

Post Reply
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Tháng Tư Đen và Đời Đá Vàng

Post by uncle_vinh »

Xin trích đăng vài bài từ Đặc San 4 KSCN và 1 bài của RFA để tưởng nhớ 30 Tháng Tư 1975 - ngày mà người dân miền Nam VN mới bắt đầu thật sự có kinh nghiệm sống với cộng sản. Cũng từ đó, càng ngày người dân càng hiểu rỏ hơn tại sao "đừng nghe những gì cộng sản nói ...!"


(Bấm nghe "Người Di Tản Bưồn"


NÓ ĐI TÌM TỰ DO

Rồng Biển


Hiện nay hiện tượng biểu tình bất bạo động tại Tunisie và Ai Cập, đòi hỏi độc tài phải ra đi dể dành tự do, dân chủ lại cho người dân, đang trên đà thành công và lan tràn đến nhiều Quốc Gia trên Thế Giới. Nhiều người tự hỏi “không biết chừng nào đến lượt Á Châu đây”. Sự kiện này làm cho người tị nạn Việt Nam nhớ lại tình hình 30 tháng tư 1975, lúc đó, muốn được Tự Do chỉ còn có cách “Vĩ đào vi thượng”, bỏ của chạy lấy người bằng cách vượt biên một sống một chết! Ai cũng kiếm đường trốn đi đến nỗi “nếu cây cột đèn mà … biết đi thì nó cũng đi luôn”!

****

Sinh ra trong một gia đình không được khá giả, nhưng nhờ chính sách cưỡng bách giáo dục miễn phí của miền Nam trước 1975 mà Nó đã có cơ hội học hành và tiến thân. Lúc bấy giờ, các trường công lập từ Tiểu học đến Đại học đều không thu học phí, thậm chí còn cấp học bổng cho con nhà nghèo. Nó cứ tưởng là học giỏi thì đời sống sẽ được sung túc hơn, vì vậy mà cứ học và học; tuy nhiên, thực tế không hẳn là như vậy, “tận nhân lực tri thiên mạng” vẫn hơn.

Trong lúc học đại học, Nó được học bổng của một công ty lớn, nên sau khi ra trường được làm việc tại đấy với mức lương khá thoải mái. Vậy là công sức nó bỏ ra đã được đền bù một cách xứng đáng. Cám ơn Trời Phật đã ban phước cho Nó.

Sau hơn một năm làm việc, tình hình chiến cuộc trong nước gia tăng, lịnh động viên được ban ra nên Nó phải lên đường vào Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức, bỏ lại sau lưng những gì mà Nó mới được ban cho.

Cuộc đời binh nghiệp từ binh chủng này qua binh chủng khác, rồi giải ngũ, ra ngoài làm việc, rồi tái ngũ và sau cùng thì được giải ngũ. Lần này Nó làm cho một nhà máy sản xuất máy móc với kỹ thuật và cung cách quản lý khá tân tiến đặt tại một khu kỹ nghệ lớn của miền Nam thời bấy giờ. Tại đây nhân viên quản trị và công nhân đối đãi với nhau như người trong cùng một gia đình.

“Rồi một hôm mấy tên Cộng Sản chiếm đất nước này, đời Nó có một lần, là lần tim Nó thấy đứng như trời trồng”. Đó là ngày mất nước 30 tháng tư 1975, ngày làm thay đổi, đảo lộn tất cả mọi thứ trong miền Nam thân yêu và yên bình này. Ngày đó, người nào có phương tiện đều bỏ chạy, người không phương tiện cũng chạy, những người không có gì hết cũng tìm cách chạy, chạy bằng mọi phương tiện dầu tốt hay xấu!

Chừng một tháng sau đó thì có lịnh gọi tất cả các cấp chỉ huy hành chánh và sĩ quan của chế độ cũ phải đi tập trung cải tạo. Nó không nằm trong thành phần này vì Nó đã giải ngũ hơn 7 năm rồi. Tưởng như vậy là yên thân, nhưng Trời đâu có chìu lòng người một cách dễ dàng như thế đâu. Ngay sau đó, lại có một thông tư về đến nhà máy là tất cả các cựu sĩ quan chế độ cũ đang làm việc trong khu kỹ nghệ phải đi tập trung cải tạo. Thế là Nó phải vác ba lô trình diện và được chở lên trại cải tạo PL tỉnh BD.

Trại tập trung: Gồm những gian nhà ngang dọc như một doanh trại, chỉ có mái che, không có vách, bên trong có cái phản gỗ rộng lớn gần bằng căn nhà dùng làm giường ngủ và cũng là chỗ sinh hoạt cho năm sáu chục người. Sinh hoạt hằng ngày gồm có “vác tre đẵn gỗ trên ngàn”, vác cuốc ra đồng đào đất trồng khoai, tối về nghe quản giáo kiểm điểm hay làm bảng kiểm thảo, lý lịch. Thức ăn chỉ có một chén cơm hẩm với chút cá nục và vài cọng rau. Nó nằm cạnh một đồng môn, sanh trưởng miền Bắc di cư vào Nam năm 54, lâu lâu nghe anh hát “Tôi xa Hà Nội năm em mười tám khi vừa biết yêu” mà rầu thúi ruột!

Đời sống trong trại rất là cực nhọc và thần kinh rất căng thẳng bởi nhiều cái không được bình thường:

- Trại viên thường hay đặt những cái bẫy để bắt thú hầu có thêm protein sau những lúc làm công việc nặng nhọc. Một hôm có một con chó bị sập bẫy, thế là xảy ra một cuộc giằng co giữa các anh bộ đội canh trại và trại viên. Kết quả là trại viên thua 1-0.
- Một trại viên đau bụng nặng được khiêng lên y tế. Cô y tá cho vào một căn lều trong đó có một cái giường sắt mà bên dưới có nuôi con heo nhỏ. Cô cho treo một cái mùng chống muỗi rồi cột tay chân người bịnh vào 4 góc giường. Xong, với tay lấy cây dao cắt thịt nhỏ, cô mổ bụng cậu ta, cắt khúc ruột thừa vứt đi và lấy kim chỉ may lại, không đếm xỉa gì đến sự kêu la của cậu trại viên bạc phước. Vài tuần sau vết thương lành lại và cậu ta vẫn sống nhăn. Ôi, thật là “phép lạ”!
- Trong khi một trại viên khác chỉ có một mụn nhọt trên mặt, sưng to lên nhưng sau vài ngày đã ra người thiên cổ vì không có thuốc trụ sinh!

Sống trong trại tháng này qua tháng nọ đếm cũng đủ đầu bàn tay, một hôm được gọi xuất trại và được về trình diện cơ quan nhà máy. Số là trong lúc vắng Nó, một khâu của nhà máy bị “sự cố” mà không ai “khắc phục” được nên phải “bắt” Nó về.

Về lại xưởng cũ: Anh em đồng nghiệp cũ mừng rỡ đón nhận ngày trở về của Nó, nhưng không khí không còn như xưa cũng như công việc mất phần hứng thú vì Nó luôn luôn bị bám sát theo dõi bởi cán bộ cộng sản.

Về nhà: Gặp lại vợ con mừng mừng, tủi tủi, lo lo. Trong thời gian ở trại, ở bên ngoài nhà nước vô sản hóa dân miền Nam bằng cách đổi tiền: “chú phỉnh” (chính phủ) lấy hết tiền cũ của dân và chỉ đưa lại tối đa là $200 cho mổi hộ, làm cho đời sống dân chúng vô cùng khốn khổ. Vấn đề học hành của con cái thì bị xáo trộn, thằng con lớn hỏi cha “Ba đi học tập, làm sao con lên học trung học được” giống như ai lấy dao cắt ruột Nó, làm vợ chồng Nó bàn bạc với nhau đưa đến kết luận là phải “ĐI”!
Nó phải đi tìm TỰ DO sau khi biết được thế nào là “Độc Lập, Tự Do, và Hạnh Phúc”.

Ra đi: Thấy có một chuyến do bà con và bạn bè thân thuộc tổ chức, vợ chồng Nó tham gia ngay. Nó chuẩn bị hành trang cho mỗi người trong gia đình và gởi đi xuống chỗ hẹn trước. Còn Nó lên xin cơ quan nghỉ một ngày. Cẩn thận hơn, sáng sớm Nó cũng ra chỗ đón xe đi làm thường ngày để chào các bạn chứng tỏ là ta vẫn còn ở nhà chớ không đi đâu, và ngay sau đó thì Nó và người bà con leo lên xe Honda xả hết tốc lực để đến điểm hẹn cho đúng giờ. Địa điểm xuất phát là quê của con nhạn trắng Phương Dung. Tất cả khoảng 20 người đều xuống tàu an toàn và bắt đầu khởi hành khi trời vừa tối.

Ngồi trên thuyền ra khơi trong trời im biển lặng, Nó cảm thấy lâng lâng, mơ màng và tràn đầy hy vọng vào một tương lai chắc chắn là khó khăn nhưng phải sáng lạng hơn, tự do hơn. Sự cảm khoái đó cũng giống như đi cruise trên một chiếc du thuyền sang trọng sau nầy.

Nhưng, lại … nhưng, không phải lúc nàoTrời cũng chìu lòng người. Sau khi đi được vài tiếng thì vì sóng vỗ mạnh, một mảnh keo giữa hai ván thuyền tróc ra làm cho nước rỉ vào khoang thuyền. Lúc đó đem máy bơm nước ra thì máy bị hỏng từ lúc nào cũng không biết, chắc là quên kiểm tra trước lúc ra đi. Thôi thì đành quay đầu lại vào bờ để tìm mua máy bơm mới.

Vào đến gần bờ thì gặp ngay một toán công an đi tuần chĩa súng chận lại. Thật là xui xẻo, gặp một sự trùng hợp ngẫu nhiên không ai ngờ được. Thôi thì đành bó tay để xem con tạo xoay vần ra sao … Các bà bàn với nhau và quyết định là vòng vàng đem theo phải giao lại cho biển cả, không nên để chúng nó lấy (sau nầy mới thấy quyết đinh của mấy bà là đúng), rồi tất cả bồng bế nhau lội biển (biển cạn vì gần bờ) vào nạp mạng. Đàn ông, con trai chỉ còn cái quần xà lỏn (vì cái áo đã bị dùng làm dây trói thúc ké) được đưa lên một xe và số còn lại thì lên một xe khác. Cả bọn được đưa về khám của tỉnh. Cuộc khám xét bắt đầu, hầu hết đều không mang nữ trang quý giá và có vẻ lam lũ, chỉ có một cô độc thân còn tiếc rẻ giữ lại trong mình chút nữ trang nên bị xét hỏi và tra khảo rất kỹ. Cô nầy bị làm khó dễ đủ điều, thậm chí sau này phải ở lại tù trong khi các bà các cô khác được thả về.

Nằm ấp GC: Khám này tương đối nhỏ. Phòng ốc nằm hai bên có 2 bục bê tông cao dùng làm chỗ nghỉ lưng cho tù nhân và giữa là lối đi. Vách sau có cửa sổ và song sắt, phía trước là một cửa sắt nặng trĩu có song đứng, có khóa bên ngoài. Ở đây khoảng 1 tuần để điều tra, sau đó tất cả được chuyển lên khám MT lớn hơn và đông người hơn.

Nhà giam MT: Nó đươc đưa vào Phòng 5, một căn phòng nhỏ bé khoảng 4.5m x 9m, hai bên là sạp hai tầng, ở giữa là đường đi. Tầng trên là một sạp gỗ, tầng dưới là bục xi măng. Một góc cuối phòng là cái bàn cầu không vách dùng để tiểu tiện và một thùng nước nhỏ để dội sau khi vệ sinh xong. Vách phòng giáp với phòng bên cạnh thì không có cửa sổ, còn vách kia thì có 2 cửa sổ song sắt phía bên trên. Phòng chứa khoảng 55 người. Mỗi tuần một lần, cả phòng được ra ngoài tắm xung quanh một bể nước, mỗi người được một cái gáo để múc nước và chỉ được 2 phút để tắm. Sinh hoạt hằng ngày là 2 bữa ăn trưa và chiều, thường được một chén cơm, một miếng cá (thường là đuôi cá sấu), và vài cọng rau; ngoài ra là đứng ngồi trong phòng … Cái bực mình là cá sấu ăn vào làm cho ngứa mình mẩy và gãi thành ra ghẻ lở. Kế đó là rệp, vô số kể, cả ngày lo bắt rệp bỏ vào lọ, đầy cả lọ này qua lọ kia mà vẫn không hết. Phòng nhỏ, nên khi ngủ phải nằm chéo chả, tức là đầu người này phải ở phía dưới chân của người bên cạnh. Trại tù lúc này người vượt biên chiếm đa số, có thể đến 60 – 70%.

Ngoài phòng 5 mà Nó ở, còn có phòng 1, 3, 6 rộng hơn, mỗi phòng chứa khoảng 200 người, phòng 7 lớn bằng phòng 5, phòng xà lim (dành để còng chân những ai vi phạm nội quy và nguy hiểm), phòng nữ, và phòng đàn bà có con nhỏ (vợ con Nó bị nhốt trong phòng này). Một tối mỗi tuần, tù được cho ra coi TV. Người xem ngồi sắp hàng theo số phòng và được đưa ra từng đợt một. Có một hôm ra xem TV, Nó quay đầu ra sau để tìm xem vợ con Nó có ra không và tình trạng thế nào. Vậy mà sau khi hết TV, Nó được kêu lên “làm việc”, Tên trại trưởng Ba C. xài xễ về cái “ý đồ liên hệ” và lấy súng đập mạnh lên bàn đòi bắn bỏ Nó. Chẳng nói lấy một lời, chờ cho xong Nó lủi thủi về phòng trong tâm trạng khó nói. Một hôm đổi sang phòng 7, gặp một đám thanh niên cũng vượt biên vừa mới vào nên Nó có thêm tin tức bên ngoài và đặc biệt được nghe lén bài nhạc Sài Gòn Vĩnh Biệt của Nam Lộc, sao mà buồn muốn đứt ruột.

Thấy mấy đứa con nít ở tù cực quá, mấy bà mẹ muốn cho tụi nhỏ về, nhưng mấy người đi thăm nuôi cản lại, vì sợ không có con nít thì các bà mẹ sẽ bị xem như là độc thân do đó sẽ bị ở tù lâu hơn. Dường như biết trước là các bà mẹ và con nít sẽ được thả ra sớm, các người bán bánh ú, bánh tét (chắc là người nhà của cán bộ trại) chịu bán thiếu cho các bà và sẽ lấy tiền lúc ra trại. Nhờ đó mà các con của Nó được no bụng một chút và Nó cũng hưởng được một cái bánh duy nhất mà vợ Nó nhờ bà bán hàng đem sang cho. Cái bánh ú lúc đó ngon làm sao ấy, nó chứa đựng cả một tình thương lai láng của vợ con đối với Nó trong tình trạng khó khăn chung. Sau hai tháng ngồi tù thì trẻ con và các bà mẹ về nhà được thả về, bỏ lại các ông chồng và những người độc thân (cả trai lẫn gái) ở tù không biết ngày ra …

Lao động: Lúc này là lúc người vượt biên bị bắt rất đông, không còn chỗ chứa, nên một ngày tốt trời các tù nhân tội vượt biên được xe chở đến một trại ngay giữa ĐTM đồng không mông quạnh gọi là trại MPT. Ở đây trại viên được chia ra từng tổ để lao động tự lực cánh sinh: tổ trồng trọt, tổ rèn dao, kéo, cuốc, xuổng, tổ làm phân xanh (lấy lau sậy cắt về đem ngâm cho mục để làm phân bón), v.v … Nó được xếp vào tổ làm phân xanh. Mỗi sáng sớm vác liềm đi bộ khoảng 8 đến 10 cây số đường ruộng, đến nơi, xuống ruộng cắt mỗi người một bó bằng một ôm nặng khoảng 20 kg và đội về trại.

Đến mùa nước nổi (lụt lội), trại viên phải đắp đê xung quanh trại để ở (như trong một chiếc thuyền). Mỗi người được chia một khoảng mấy thước để hoàn thành cái đê. Để có đủ đất đắp đê, phải chèo xuồng ra xa lấy đất. Muốn lấy được đất phải dùng xuổng xắn 4 cạnh, nạy lên rồi nín thở lặn xuống nước để ôm cục đất lên khỏi mặt nước và chất vào xuồng. Và cứ thế mà làm cho xong con đê chận nước. Đê làm xong, nhưng vẫn phải thay phiên tát nước liên tục vì thế nào nước cũng thấm qua; mỗi người phải tát mỗi lần khoảng 500-600 gàu. Miệt dưới ĐTM có rất nhiều rắn, toàn là rắn độc như mãng xà, hổ mang (cobra), rắn chung, v.v..., chúng cũng không thích nước nhưng không biết đắp đê nên kiếm chỗ cao mà ở, như là trong phòng ngủ hay trên các cành cây, vì vậy đi đâu cũng gặp rắn, may mắn là trong suốt thời gian này không ai bị rắn cắn cả. Có lẽ là bận trốn chạy thiên tai mà nó không còn nghĩ đến việc sát hại đồng loại hay các động vật khác cũng trong hoàn cảnh như nó chăng?

Tuy nhiên vẫn có nhiều chuyện buồn chết chóc đã xảy ra:

Chuyện thứ nhất là có một anh hình như là tên Phát, trong khi đi lao động ngoài trại, anh vượt trốn. Sau một ngày lẩn trốn, anh ta bị bắt lại và bị nhốt dưới hầm. Một đêm anh lại trốn được ra khỏi hầm và men lại hàng rào trại để lẻn ra ngoài. Không may cho anh là lính canh hay được bắn mấy loạt súng làm anh bị thương. Anh bị bắn lại ở ngay sau phòng của Nó. Tiếng rên la đau đớn của người bị nạn làm cho cả phòng không thế nào ngủ được. Sáng hôm sau họ cho vài trại viên vào khiêng anh ra với vết thương ở bụng và máu chảy đầm đìa. Rồi họ ra lịnh cho ra ngoài sông gánh vào vài thùng nước để rửa vết thương. Sau khi được đổ mấy thùng nước vào vết thương, anh đã trút hơi thở cuối cùng. Và với manh chiếu rách quấn quanh mình, anh đã được chôn dưới đất lưng chừng trong mùa nước nổi!

Kế đó là chuyện một trại viên bị đau và không thuốc chữa nên đã ra người thiên cổ, nhưng chưa được chôn vì mực nước còn quá cao, nên thân anh được quấn chiếu và đặt tại một phòng trống không vách che. Để như vậy cả tuần lễ mà xác không bị sình thúi, vì khi chết anh chỉ còn da bọc xương!

Để cho thời gian qua mau, Nó tham gia tổ chức một ban văn nghệ, đặc biệt là cải lương, trong đó có anh kỹ sư Trọng, Nông Lâm Súc, giả gái (vì không có nữ trong ban) rất tài tình và ca vọng cổ rất là mùi. Lâu lâu trình diễn tại hội trường, quần áo làm bằng giấy màu coi rất professional làm các trại viên thoải mái, và các cán bộ mê mệt, nhất là với vở Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài.

Thấm thoát cũng gỡ được hơn 2 cuốn lịch Tam Tông Miếu. Vào một ngày tốt trời, Nó được gọi lên mang theo hành trang cá nhân và được đưa về khám cũ. Trên đường đi lòng lo sợ không biết sẽ đi về phương nào, tốt hay xấu đây. Về đến khám thì nhận được giấy ra trại. Mừng mừng, tủi tủi theo vợ trở về Saigon yêu quý với cái thân gầy gò vì thiếu ăn trong hơn 2 năm gỡ lịch. Về nhà, nó được nghe kể lại những chuyện đã xảy ra trong lúc ở tù:

- Khi vợ con Nó được tha về, nhà cửa bị tịch thâu, phải ở nhà cha mẹ vợ, không hộ khẩu, công an khu vực hối thúc đi vùng kinh tế mới. Tinh thần bị căng thẳng khôn tả, đời sống vô cùng khó khăn.
- Người đầu tỉnh MT lúc đó vẫn còn lý tưởng nên mới nhốt tù vượt biên lâu (vì CS cho là thành phần phản quốc). Hoa kiều bị bắt cũng nhiều nhưng chưa thấy ai ra. Người Hoa chuyên chạy chọt hối lộ vậy mà họ chưa thành công chắc là vậy. Cho đến lúc Hoa kiều tổ chức đi “bán chánh thức” chi rất nhiều tiền ở các tỉnh kế cận thì MT mới xét lại (ngu gì mà không ăn). Từ đó mới có người được thả ra với giá chuộc rất là cao so với những tỉnh khác, trung bình là 12 cây (lượng) vàng cho mỗi người. Nó cũng được chuộc ra với giá này. Tội nghiệp cho vợ Nó, ở bên ngoài, cố gắng tìm một chuyến khác để đi và ngày đi sắp đến nên lật đật chuộc Nó ra để đi cùng …
Đây là lần đầu tiên trong đời Nó phải hối lộ để chuộc lấy một sự gì tốt hơn.

Đáng lẽ khi về thì phải trình diện Công an địa phương, nhưng nhà cửa bị tịch thâu mất rồi còn chỗ ở đâu mà trình diện. Nó cứ lang thang nay ở chỗ này mai chỗ khác, có lúc Nó ở nhà một thằng bạn thân chịu chứa chấp Nó. Xin Ơn Trên phò hộ cho gia đình người bạn tốt này mặc dầu nay anh đã ra người thiên cổ. Rồi cứ như thế, nếu muốn về gặp vợ con thì phải đợi đến nửa đêm lúc bắt đầu giới nghiêm mới dám ló đầu về, và sáng sớm trời còn mơ sương lại phải đi ngay. Nó cứ dài cổ chờ chuyến đi mà vẫn không thấy đâu. Một hôm có một đàn em đến rủ đi để phụ anh ấy coi sóc máy móc. Nó nhận ngay, và cùng với thằng con lớn, hành trang khăn gói lên đường. Nhưng chắc là cái số chưa đi được cho nên khi ra khơi độ một vài ngày thì lại bị bắt và bị giam vô khám CT, lúc đó thằng con được thả về.

Khám CT: Khám này cũng khá đông, mỗi lần một tàu vượt biên bị bắt vào thì khám chật nứt không có chỗ chứa, nên đàn bà con nít được thả ra. Thức ăn thường, mỗi ngày, là một chén cơm, một con cá nhỏ bằng ngón tay và một cọng rau. Thông thường tù nhân để dành phần cơm đến tối mới ăn vì bụng no thì dễ ngủ hơn. Khi người nhà thăm nuôi, họ chỉ được đem cám cho người thân thôi (vì trong cám có chất sinh tố B1 để tránh phù thủng).

Học Tử Vi trong tù: Những ngày trong khám, Nó được quen với một thanh niên người Việt gốc Hoa cũng vượt biên bị bắt. Anh ta dạy cách an sao trong lá số tử vi và bảo Nó học thuộc lòng để dùng an các sao nếu biết được ngày giờ sinh. Anh ta còn dạy cách lý giải lá số. Anh và Nó cứ lấy lá số của nhau ra bàn bạc (kể cũng hay vì việc ấy làm cho thời gian qua nhanh), cứ xem ảnh hưởng của lá số hằng ngày. Hôm nào thấy “động”, tức là di chuyển là ngày đó có thêm tù vào phòng và anh với Nó phải dời chiếu ngủ qua chỗ khác nhưng vẫn cùng phòng. Một hôm, sau mấy tháng nằm khám, anh xem lá số của Nó, bảo là có “động”. Mà quả là động thật, hôm ấy Nó được gọi đem đồ đạc cá nhân lên văn phòng làm việc và sau đó được xuất trại cho về. Trong mấy tháng ở tù, học tử vi đã đời, nhưng Nó quên hỏi ông thầy tại sao biết quá nhiều mà không tự xem cho Ông để khỏi phải vào tù.

Lại hối lộ: Sở dĩ được ra kỳ này cũng là nhờ vợ Nó và người bà con bên vợ. Số là trong lúc Nó đang ở tù thì lại có một chuyến sắp đi nên vợ Nó đề nghị tổ chức chuộc Nó ra để đi cùng, nhưng Ban tổ chức thấy số Nó xui nên không đồng ý, bèn trả lại 2 cây gọi là chi phí của phần Nó. Chuyến đi đó đã thành công đem theo tất cả vợ con Nó (gồm ba thằng con nhỏ trong đó có một đứa gãy tay đang băng bột). Với số “cây” được hoàn lại, vợ Nó đã nhờ người bà con tìm cách chuộc Nó ra. Một lần nữa, Nó được ra là nhờ hối lộ.

Sự thành công trong chuyến đi của vợ con Nó: Vừa về là có tin mừng vợ con đã đến trai tỵ nạn Bidong an toàn. Muốn liên lạc với vợ con, Nó phải viết thơ đi vòng qua một ông GĐ cũ của Nó ở Nhật. Khi hay tin vợ con Nó ở đảo, Ông kêu gọi các bạn cũ của Nó cùng Ông gởi cho vợ Nó một số tiền. Nhờ đó vợ con Nó có thêm chút dinh dưỡng, nhất là cho cái thai nhi trong bụng. Sau này có dịp sang Nhật, gặp lại các bạn cũ, Ông GĐ giao cho Nó một xấp thơ, một bản đồ Saigon và 2 tấm sơn mài loại Mai Lan Cúc Trúc (Ông giữ 2 tấm và trao lại cho Nó 2 tấm). Đó là những lá thơ Nó đã gởi để nhờ Ông liên lạc với vợ Nó mấy chục năm về trước. Cầm món quà mà 2 vợ chồng Nó không cầm được nước mắt.

Cuộc đời không vợ, không con, không nhà: Vậy là ý nguyện của vợ chồng Nó đã thành tựu hơn phân nửa. Còn lại một thân, một mình thì Nó sẽ dễ bề xoay sở hơn. Tuy nhiên, sau thời gian liên tiếp bị cách ly với thế giới bên ngoài, Nó ngỡ ngàng với xã hội mới mẻ này. Không biết có phải vì sự sinh tồn hay sự khát vọng tự do,mà con người chỉ biết lấy cứu cánh để biện minh cho phương tiện. Người ta sẵn sàng lường gạt nhau đến mức vô liêm sỉ. Vô liêm sỉ đến độ lừa luôn cả bạn bè và người thân thuộc. Có người bị lừa cho đến nợ chồng, nợ chất, cuối cùng phải kết liễu đời mình, có khi luôn cả gia đình.
Vào hoàn cảnh Nó, vấn đề đoàn tụ là cứu cánh chính yếu để Nó chu toàn cái trách nhiệm làm chồng, làm cha. Bao nhiêu đồ đạc quý giá, dấu chỗ này gởi chỗ nọ trước chuyến đi đầu tiên, đã được bán sạch để lấy tiền đi chui và chuộc tù. Nó chỉ còn chiếc xe scooter cũ kỹ và chiếc xe đạp cũng không mới mẻ gì. Xe scooter phải đem gởi bạn vì không tiền mua xăng. Cũng may cho Nó là kiếm được việc làm ở một tổ hợp chuyên tân trang các động cơ Diesel do một người bà con quản lý. Ban ngày thì lo sữa máy, phần lớn là các loại máy xe Ben (máy xe tải kéo gỗ) hay máy tàu như Cummins, Yanmar, tối thì ngủ tại tổ hợp, hoặc về nhà cha mẹ hoặc nhà Ông bà nhạc. Nnay chỗ này mai chỗ nọ để tránh công an xét hộ khẩu. Cái xe scooter thì giao cho người chạy hàng lo việc tìm mối. Công việc làm ăn lúc đầu cũng khấm khá, làm xong thì được thanh toán ngay. Sau đó, việc thanh toán cứ chậm dần và cuối cùng thì dẹp tiệm. Lúc đầu anh em còn ăn cơm chịu ở quán kế bên, cuối tuần mới phải trả tiền; sau đó thì mua gạo nấu cơm lấy mà ăn, rồi đến bo bo, và sau rốt thì khỏi ... lo ăn nữa! Cái xe scooter của Nó cũng bị cuỗm luôn.

Một hôm gặp lại một người bạn làm chung sở lúc trước rủ đi. Chi phí phải trả trước là 1 cây, số còn lại sẽ thanh toán sau khi đến bến bờ tự do. Vì tin bạn, Nó mượn ông nhạc để trao cho bạn nhưng chờ hoài không thấy gọi đi, đến lúc trở lại tìm thì anh ấy dọn nhà đi đâu mất, không biết là trốn nợ hay đã vượt biên mất rồi.

Lại một lần nữa, gia nhập vào một nhóm với phần hành là phụ trách máy móc để đi không phải trả tiền. Chuyến khởi hành tại PT, một tỉnh ở miền Trung. Tỉnh này có tiếng là khi bị bắt là kể như gở lịch mệt nghỉ, 3 cuốn là ít. Trong thời gian bàn bạc phân chia công tác, không biết có bị lộ không mà có một hôm Nó bị theo dõi. Nhờ tính hay cẩn thận nên khi ra đi thì dùng đại lộ mà khi về thì tìm những đường hẻm nhỏ mà đi. Người theo Nó hình như đi xe Honda còn Nó thì đi xe đạp. Khi Nó vào một đường hẻm, hẹp vừa đủ chiếc xe đạp, liếc thấy phía sau có người chạy theo định níu xe lại, lật đật Nó đạp nhanh ra khỏi hẻm, hắn theo không kịp nên rút súng bắn và la “bắt nó”. Nó chạy thoát được, tạt vào nhà người quen gần đó, tim đập thình thịch, chờ cho mọi sự tạm yên rồi mới dám về nơi trú ngụ. Đường hẻm đó có tên là hẻm thầy Ba cầu Bông giữa đường Trần Quý Cáp và Phan đình Phùng. Hú vía!

Đến ngày đi, mọi người ra PT vào trú tại một nhà Thùng - một nơi làm nước mắm có nhiều thùng gỗ to tướng để ủ cá thành nước mắm. Nơi đây kể như là nơi lý tưởng để trốn công an nhưng mùi nước mắm thật là khó chịu. Tối lại cả bọn được đưa đi bằng xe tải nhẹ có sẵn mấy thùng cá để ngụy trang. Xe dừng ở một bãi biển để đổ người xuống thì thình lình có 2 công an chở nhau bằng xe scooter đến định xét xem xe có chở đồ lậu không. Anh tài xế xe nhanh chân lẻn trốn mất. Tất cả vội đào cát bỏ tiền, vàng vòng, la bàn vô đó và lấp lại để phi tang. Cả bọn bị bắt đưa lên xe do một anh công an lái, còn anh kia chạy theo xe canh chừng. Cũng may là anh lái xe không rành nên xe chạy không được suông sẻ, làm anh kia lúc thì chạy lên coi chừng anh lái xe, lúc thì ra sau canh chừng bọn người mới bị bắt. Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu Nó “lần này nếu bị băt thì chắc chắn là ở lâu lắm, có thể bỏ thây ở nhà giam”. Thừa lúc anh kia chạy xe ra phía trước, Nó nhảy ra khỏi xe và nhanh chân lẻn vào một ngõ hẻm gần đó trong đêm tối. Chờ một lúc không thấy động tịnh, Nó bèn mò ra tìm lại nhà thằng Nga, bạn của em Nó, mượn tiền để đón xe về Saigon. Đêm khuya gõ cửa làm thằng nhỏ sợ quá lật đật lấy tiền đưa ngay để Nó đi mau. Nó lần mò ra bến xe tìm xe hàng xin quá giang thay vì đi xe đò để tránh mọi sự dòm ngó, và Nó về được Saigon trong sự may mắn không ngờ.

Lại tiếp tục lang thang cho đến một hôm, gặp một anh đồng môn nói có một tàu bán chánh thức cần một người coi máy và chỉ lấy 2 cây, khi nào đi mới đưa. Lúc này chánh quyền cho tổ chức đi bán chánh thức để vừa lấy vàng của người Tàu vừa đuổi họ ra khỏi nước. Họ phải lo đóng tàu và phải đóng số tiền thật lớn, mỗi người là 8 lượng vàng trở lên. Thế là Nó có việc làm và ăn ở dưới tàu, cứ năm, bảy ngày thì chạy một vòng trên sông để kiểm soát máy móc và trang bị. Tới ngày chủ tàu đòi tiền, Nó lật đật chạy đi mượn vàng để đóng rồi lại xuống tàu làm việc tiếp. Lúc đầu thì còn ăn cơm với cá, lần hồi ăn cơm với chao, rồi ăn bo bo cầm hơi. Chờ mãi vẫn không thấy tin tức đi gì cả. Sau cùng, chủ tàu bảo neo tàu ở đấy cho một đứa cháu trông coi và chừng nào đi thì họ sẽ cho biết, nhưng không thấy ai gọi nữa. Trong khi chờ đợi, Nó tìm đọc quyển Navigation của hàng hải, sao chép các bản hải đồ của vùng biển Đông để làm tài liệu khi cần.

Được tin vợ đã sanh được một thằng con trai trong lúc ở trại tị nạn và đã được qua Mỹ định cư. Nó mừng quá vì như thế là lời cầu nguyện của Nó cho tương lai con cái đã được Ơn trên đáp ứng. Cái mừng thứ hai của Nó là đứa con sanh ra được khỏe mạnh vì Nó cứ lo sợ không biết sau bao nhiêu gian truân cái thai có bị ảnh hưởng gì không. Sau tin này, lại có thêm tin mừng khác là Ông già vợ cho biết có một chuyến sắp đi và dẫn Nó gặp người mối, té ra là thằng bạn học khi xưa của Nó. Lần này vì sợ xui, sợ mất tiền bạc nữa (lại dị đoan) nên Nó nhờ Ông già vợ trao tiền cho người ta.

Chuyến đi thành công: Lần này có tay Ông già vợ đâm ra hên. Đến ngày hẹn, hai cha con chở nhau bằng xe đạp đưa thằng con rể đến điểm hẹn. Nó xuống một ghe nhỏ cùng với ba bốn người nữa và chèo ra gần Nhà Bè lúc trời nhá nhem tối mới leo lên một ghe lớn hơn. Ghe này cũng rước thêm mấy ghe nhỏ khác. Lúc đó có thêm một đám đi hôi (không có trong dự trù và cũng không đóng tiền đi), phần lớn là trai tráng, nên ghe gần khẳm (over loaded). Đi gần tới Vũng Tàu, ghe bị mắc cạn nhưng nhờ đám thanh niên đi hôi xúm vô đây mà ghe qua được chỗ mắc cạn và ra đến điểm hẹn ở Vũng Tàu. Tới nơi, cộng thêm vài ghe nữa, mọi người đổ qua ghe đánh cá. Ghe đánh cá dài khoảng 12 m (40’), rộng khoảng 2.5m (8’) , chở tất cả là 139 người cả già lẫn bé, chen chúc nhau dưới khoang và trên sàn.
Ghe khá khẳm, mặt nước chỉ cách thành ghe độ 1 tấc (4”). Đến sáng ghe ra tới ngoài khơi Vũng Tàu. Ngồi phía sau, thòng chân xuống nước, nhìn vào thành phố Vũng Tàu mà lòng thấy lâng lâng, vừa mừng, vừa sợ, sợ bị bắt lại như những lần trước, trong thâm tâm vẫn cầu nguyện cho tai qua nạn khỏi. Ghe chở đầy người thật là lộ liễu nhưng không bị phát giác. Nó cầm la bàn điều khiển tài công, trực chỉ hướng Đông mà đi. Sau 2 ngày, trời bắt đầu giông bảo làm ghe lắc lư chao mạnh, phần đông trên ghe đều say sóng và ôm nhau chờ cho số mệnh an bài. Anh tài công cũng không hơn gì, thành thử Nó phải lên thay. Cũng nhờ có chút hiểu biết về hải hành, nếu cho ghe chạy song song với sóng là sẽ bị lật ngay; cho nên một tay Nó ôm tay lái, một tay ôm cột của mui ghe để giữ cho ghe chạy vòng và luôn thẳng góc với sóng. Nhờ có số đông thanh niên thay phiên nhau tát nước mà chiếc ghe được tai qua nạn khỏi sau trận bão kéo dài suốt đêm. Sau đó ghe lại chịu thêm hai con bão nữa thì trời mới êm ả lại.

Ghe cứ trực chỉ hướng Đông và gặp một tàu đánh cá. Té ra là tàu hải tặc, chúng cặp vào ghe và nhảy sang khống chế cả ghe và cướp đồ qúy giá, vàng bạc, lấy luôn cả cái hải bàn và bản đồ; nhưng cũng còn lương tâm để lại cái địa bàn loại của bộ binh, vài thùng dầu và mấy thùng nước uống . Sau đó chúng cột dây kéo ghe đi một đỗi thật xa mới dừng lại, bắt tất cả đàn ông con trai xuống biển ở một chỗ cạn đứng tới cổ, rồi kéo ghe ra xa khoảng vài trăm mét và xét lấy nốt những gì còn sót lại trên ghe. Xong chúng bỏ ghe mà đi. Cũng may là chúng không hãm hiếp ai hết. Nó và các thanh niên biết bơi lội đi lấy ghe trở lại rước mấy người còn đứng giữa biển mênh mông.

Ghe lại tiếp tục đi về hướng đông hy vọng sẽ gặp một mảnh đất liền nào đó. Đêm đó, khi thấy một vừng trời sáng rực, mọi người mừng như thấy được ánh sáng cuối đường hầm bèn nhắm hướng đó mà tới. Khi đến gần mới biết đó là mỏ khí đốt đang được khai thác và đoán rằng thế nào cũng có tàu dầu bỏ neo quanh đây. Thật vậy, sau một lúc tìm kiếm thì gặp được một chiếc tàu khổng lồ của hãng Esso. Men lại gần, thủy thủ không cho lên tàu nhưng cung cấp đầy đủ nuớc uống, sữa hộp, rồi chỉ cho hướng đi, họ nói rằng trong 6 giờ sẽ đến đất liền thuộc Mã Lai. Họ cũng cho một bản đồ để theo đó mà đi. Nói là 6 giờ chắc là cho tàu lớn, chớ với ghe nhỏ đi như rùa thì 6 giờ rồi mà vẫn chưa thấy gì hết. Thêm 1 lý do làm cho chậm nữa là, trong đêm tối, người tiếp dầu đã lấy lộn thùng nước châm vào bình dầu chạy máy làm chết máy và ghe nổi bềnh bồng trên biển. Nó bèn lấy đồ nghề ra sửa làm cho máy chạy lại. Khi ghe vào gần bờ, Nó lấy bản đồ của tàu dầu cho, xác định vị trí và lái ghe vào cảng Kotakinabalu ở phía Bắc của đảo Borneo, Malaysia. Khi ghe cặp bến thì vừa lúc cảnh sát hay được chạy đến chận không cho ai lên bờ. Họ định đuổi ghe đi nhưng chiếc máy Yanmar 3 bloc của ghe đã bị phá (một chi tiết mà Nó còn nhớ rõ là số đăng ký của chiếc ghe là 48B1643). Vài giờ sau, nhờ cảnh sát thông báo nên phái đoàn Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc đến nhận số người này và cho lên cầu tàu nghỉ ngơi. Cảm động nhất là các tiệm ăn tại Cảng đã đem thức ăn đến cho, nên mọi người có một bữa ăn ngon lành sau 12 ngày đêm lênh đênh trên biển cả.
Ngày hôm sau, Cao Ủy Tị Nạn đưa tất cả mọi người đến đảo tỵ nạn Pulau Papan, và vài tháng sau thì Nó rời đảo đi xum họp với vợ con, bắt đầu một cuộc sống mới từ con số không ở một đất nước dân chủ và tự do nhất địa cầu.
Xin cám ơn Trời Phật, sau những năm tháng hoạn nạn dài đăng đẳng, Nó đã tìm lại được TỰ DO.


Rồng Biển
(Một CN)
Last edited by uncle_vinh on 20 May 12, Sun, 8:03 am, edited 20 times in total.
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Tháng Tư Đen và Đời Đá Vàng

Post by uncle_vinh »

Chuyến Vượt Biên Qua Địa Ngục

Việt Nguyên


Đúng 100 ngày mẹ tôi mất, gia đình chúng tôi 11 người gồm 2 vợ chồng tôi và cháu bé, 2 cặp vợ chồng 2 người em trai tôi, 2 cháu trai con ông anh cả, ông anh vợ và cô em vợ, lênh đênh trên vịnh Thái Lan, trên chiếc xà lan với hơn 100 người trong chuyến vượt biên tìm tự do vào tháng 10 năm 1977.

Biển yên, gió lặng, ban đêm biển và trời đen như mực, ban ngày biển xanh biếc, ở trên vịnh Thái Lan chúng tôi đã nhìn nhau hỏi: Chúng ta sẽ đi về đâu? Khi cái chết đến gần kề, có người đã tự trách: Tại sao chúng ta đã bỏ nhà ra đi? Những lựa chọn can đảm và gan liều đã bị sự tuyệt vọng lấn át.
Chuyến vượt biên được sửa soạn trên 4 tháng nay nằm trong bàn tay quyết định của Trời. Trên chiếc xà lan bồng bềnh ở vịnh Thái Lan tôi đã có dịp nhìn lại sự lựa chọn của chính mình sau hơn hai năm sống dưới chế độ Cộng Sản. Tôi, ngày hôm ấy, đã tham dự với hơn triệu thuyền nhân khác, chọn lá phiếu bằng thuyền giống như những lá phiếu bằng chân vào những ngày trước tháng 4 năm 1975 của những người tị nạn chạy từ miền Trung vào Nam theo quốc lộ số một.

30 tháng 4 năm 1975 – Ngày Saigon mất vào tay Cộng Sản, gần trưa nghe tin xe tăng Cộng Sản đang tiến về Saigon, trên xa lộ Biên Hòa, tôi chở anh Hải ông anh vợ tương lai đi một vòng ra Saigon, sau khi nghe Huỳnh Tấn Mẫm sinh viên Y khoa Saigon tranh đấu vào thập niên 1960-70 phát biểu và nhạc sĩ Trịnh Công Sơn lên đài phát thanh Saigon hát bài “Vòng tay lớn”. Đến góc Công Lý và Đại lộ Thống Nhất, tôi được chứng kiến cảnh lịch sử, nhìn đoàn xe tăng Cộng Sản tiến vào dinh Độc Lập. Trong đám người không đông lắm lúc ban đầu, chỉ có một ký giả Nhật đứng quay phim, tôi nhìn những bộ mặt ngây ngô của bộ đội ngồi trên xe tăng hỏi đường trong khi dinh Độc Lập ở trước mặt và đã có cảm giác như một người bị lừa.

Đoàn quân “Giải phóng” trên đại lộ Thống Nhất được đón chào trong sự im lặng cho đến khi có người đặt câu hỏi ngớ ngẩn: “Bộ đội có súng ngồi trên xe tăng chĩa xuống mặt mình, nếu không hoan hô lỡ họ bắn chúng mình chăng?” Thế là những tiếng hô lớn “hoan hô cách mạng!” được cất lên.

Khi chiếc xe tăng đầu tiên cán sập cổng dinh Độc Lập, tôi rời đám đông, chạy xe Honda về phía bệnh viện Nguyễn Văn Học, trên đường nghe tin Tổng Thống Dương Văn Minh đọc bản đầu hàng từ Đại Tá Việt Cộng Bùi Tín. Tôi đã mất cơ hội nhảy lên một chiếc tàu đậu ở bến Bạch Đằng để đi tị nạn bằng đường biển ngày 30/4/75 chỉ vì thích làm chứng nhân lịch sử.

Mồng 1 tháng 5 năm 1975, ngày quốc tế lao động, buổi trưa chúng tôi được lệnh về trường Y khoa, họp ở Đại giảng đường để chứng kiến cảnh tiếp thu trường. Lần đầu tiên tôi được nghe giảng lý thuyết Mác Lê nin và tội ác Mỹ ngụy qua Bảy Thủ, bác sĩ quân quản tiếp thu trường. Trên bàn chủ tọa có sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm. Bảy Thủ, một người hùng biện với khẩu súng lục bên hông phải, đã cho thấy thế nào là tự do khi trả lời những câu hỏi đã được soạn sẵn. Sau buổi họp, gặp mặt một nhóm sinh viên y khoa; Bảy Thủ đã tự hào kể chuyện thu nhận đám sinh viên tranh đấu Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy, Nguyễn Thanh Công, Bùi Quốc Châu v.v…vào Đảng trong mật khu năm 1968. Các sinh viên tranh đấu, tự nhận yêu nước chống Mỹ được trao trả ở Tây Ninh qua cuộc trao đổi tù binh với Mỹ chỉ là những đảng viên cộng sản, khác với lời những lời tuyên truyền của chính quyền cộng sản Bắc Việt trong mấy năm qua đổ tội cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đàn áp bắt bớ các sinh viên yêu nước không cộng sản.

Trở về bệnh viện Bình Dân, cùng với Tuấn (đã mất vài năm trước bên Anh) bạn học cùng lớp, cùng nội trú bệnh viện Bình Dân, đi qua Minh Mạng, Ngã Sáu đến đường Phan Thanh Giản, ngồi phía sau Honda của tôi nhìn cảnh Saigon thay đổi với không khí “Cách mạng”, một cách mạng bạo lực đồng nghĩa với phá bỏ, đập đổ, hỗn loạn, cướp bóc, hoang mang với những đoàn xe phóng thanh trên đường phố hát những bài hát cộng sản yêu bác Hồ, những bài hát đầy máu, đầy xương. Nhìn những nhà cách mạng 30 tháng Tư “trở mặt trở cờ, hai bên đường trước mặt nhà các lá cờ đỏ sao vàng và cờ mặt trận giải phóng miền Nam thay cho những lá cờ vàng 3 sọc đỏ, Tuấn nói, “ cờ của kẻ chiến thắng bao giờ cũng rực rỡ ”, nhưng tôi chỉ nhớ đến hai câu thơ của Trần Dần trong cuốn tuyển tập Trăm Hoa Đua Nở: “Tôi bước đi không thấy phố thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ”.

Mấy tháng sau, “mưa sa, lệ nhỏ” trên khắp miền Nam. Sỉ quan, công chức cao cấp chế độ cũ bị lừa vào các trại học tập. Chiến dịch đánh phá tư sản mại bản, đổi tiền, đẩy dân đi kinh tế mới nhằm cướp tài sản, làm giàu cho cán bộ và đảng viên cộng sản. Dân miền Nam trong cảnh gia đình ly tán, bắt đầu đứng sắp hàng mua thực phẩm như dân miền Bắc trong hơn 20 năm qua. Hộ khẩu, phiếu thực phẩm được áp dụng. Dân Saigon sống trong vựa lúa miền Nam bắt đầu biết thế nào là đói kém, là thiếu tự do. Ba tháng sau ngày 30/4, cha tôi mất sau khi nhìn cảnh đời thay đổi khác hẳn với sự tưởng tượng của ông về lý tưởng cộng sản. Cảnh nhà đơn chiếc sau khi ông anh thứ hai của tôi đã đi Mỹ trước ngày 30 tháng 4, hai ông anh lớn của tôi đi học tập. Mẹ tôi bị khủng hoảng thần kinh sau ngày đi mít tinh ở vườn Tao Đàn chứng kiến Phạm Hùng ôm hôn các đồng chí miền Bắc, nhất quyết đưa miền Nam vào con đường xã hội chủ nghĩa. Những người bà con từ Thanh Nghệ Tĩnh vào đều hỏi tôi đúng một câu: “tại sao chúng mày có ăn học lại còn ở lại, không đi Mỹ”. Những người giữ chức vụ lớn trong chính quyền, dạy chủ nghĩa cộng sản trước đám đông, nói khác làm khác khi ngồi trong gia đình nói về một miền Bắc xã hội chủ nghĩa điêu tàn. Họ cảnh báo tôi về những chuyến đấu tố sắp xảy ra, tổ dân phố đã tổ chức những cuộc tố như “gia đình có người đi Mỹ, nhà đã cho Mỹ mướn, con bà có liên hệ đến “Nguyễn Văn Thiệu” đã làm cho Mẹ tôi trở bệnh.

Những người cộng sản nói khác, làm khác, nghĩ khác, tràn ngập Saigon, ngay cả đến những đảng viên trẻ như ông bạn mới, Võ Hồng Phúc, vào Saigon ngày đầu tiên nhận công tác từ Hà Tĩnh cũng không khác gì đảng viên già. Mấy tháng sau khi mỗi đêm nằm nghe nhạc vàng, nói thơ Đường, buổi sáng đạp xe đạp ra trung tâm thành phố uống ly cà phê, ngắm cảnh hoa lệ còn sót lại của một Saigon “phồn vinh giả tạo” Phúc mới có can đảm thú nhận với tôi: “dân miền Nam dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu có tự do!”

Chính trị chen vào mọi mặt, ngay cả trong Y khoa, đưa đến một nền Y học suy đồi thiếu thuốc men và phương tiện. Các cuộc mổ xẻ thiếu thuốc mê và thiếu dụng cụ ở bệnh viện Bình Dân, một bệnh viện nổi tiếng về giải phẩu được Giáo sư Tôn Thất Tùng cũng như phái đoàn Y khoa Hoa Kỳ AMA công nhận. Bác sĩ phải có óc sáng tạo với y đức mới, khung cảnh mới: “Không có tấm lòng nhân đạo chung chung, không có lòng nhân đạo đối với kẻ thù!”

Hơn hai năm sống dưới chế độ cộng sản, chúng tôi những y sĩ trẻ trong bệnh viện Bình Dân như Tuấn, như Nguyễn Tấn Lộc thấm thía cái cảnh vô sản, con người bị tước bỏ từ vật chất đến tinh thần, đóng cửa truyền tay nhau đọc “Tầng đầu địa ngục” của Solzhenitsyn, thuộc lòng câu nói của tù nhân kỹ sư Bobynin, vạch áo nói với cai ngục: “ông đã tước đoạt tự do của tôi từ lâu rồi và ông cũng không còn khả năng trả tự do cho tôi vì chính ông, ông cũng không có tự do… Ông chỉ mạnh khi nào các ông không tước đoạt của người khác hết mọi thứ. Bởi vì khi một người đã bị các ông lấy mất hết tất cả, người đó sẽ không còn ngán sợ các ông nữa. Người đó lại được tự do … ông không làm gì được tôi hết vì tôi chẳng còn gì, ông hiểu không? Ông không thể làm hại được vợ con tôi vì một trái bom đã làm vợ con tôi tiêu tán từ lâu rồi …”

Tôi thích thú với Sozhenitsyn, tôi cập nhật hóa tin thời sự, những chuyến vượt biên qua đài BBC qua giọng Đỗ Văn. Mỗi ngày ở sân trường Y khoa, tôi tóm được tình hình Việt Nam, tình hình thế giới. Bạn bè cùng lớp gọi tôi là “phát ngôn viên đài BBC”. Những buổi học tập chính trị, những buổi họp tổ là những dịp để tôi phân tích chính trị và phát biểu tư tưởng phản động. Các bác sĩ trẻ đoàn viên tiên tiến, thiếu tư cách và tay nghề đang cố tranh đấu vào đảng tránh xa tôi mỗi khi họ bước vào giảng đường. Trình độ Y khoa của các bác sĩ sau 1975 càng ngày càng kém với những bộ mặt “hồng thắm hơn chuyên”. Trong những buổi sáng giao ban ở bệnh viện Bình Dân, tôi đã phải ngồi chịu trận nghe các đồng chí Y sĩ từ rừng ra như Năm Lực, Mười Nhâm dạy các thầy tôi, Đại giáo sư Phạm Biểu Tâm, Trần Ngọc Ninh cách mổ cắt ruột dư!

Cách mạng với dân làm chủ, đảng lãnh tạo, chính quyền quản lý đã dạy tôi nhiều bài học về tự do dân chủ! Tôi học được cách phát biểu “nước đôi” như các nhân vật trong truyện 1984 của George Orwell tác giả “Trại súc vật”. Tôi tự biết con người tôi như vậy đã biến đổi, không thể ở lại được với chế độ mới. Khẩu hiệu “Yêu nước phải yêu xã hội chủ nghĩa” được tôi đổi lại thành “Yêu nước phải yêu biển”.

Biển Đông đã chôn vùi nhiều người sau 30/4/1975 nhưng biển nhuộm màu máu đỏ vẫn xanh, vẫn đẹp hơn màu đỏ của Cộng Sản đang tô vẽ trên xã hội miền Nam.

Chuyến vượt biên được chuẩn bị hơn 4 tháng, lúc đầu chúng tôi do dự vì chưa có chuyến vượt biên nào bằng xà lan thay vì thuyền đánh cá. Người tổ chức chuyến đi là cựu Trung úy Thuận (sau này qua Mỹ tôi mới biết anh là Đại đội phó của anh Song, ông anh cả của tôi). Thuận bảo đảm đi xà lan an toàn, với máy xà lan đi đến Thái Lan an toàn hơn là thuyền đánh cá. Tôi hỏi Thuận, khi gặp biển động, xà lan như tấm ván, không có hàng rào bên trên, sóng đánh xà lan lật không có gì để bám víu? Thuận bảo đảm là xà lan có hầm bên dưới có thể núp được sóng gió. Cho nên với tất cả bất mãn, ngu dốt và ngây thơ, tôi đóng trước số vàng đang có để góp phần trong chuyến đi. Vợ chồng chúng tôi còn đi xem bói với chị Mai một người trong ban tổ chức. Bà thầy bói bảo đảm chúng tôi sẽ đi đến nơi nhưng vất vả phải qua 2,3 chặng đường gian khổ mới đến đích! Đóng tiền xong, chờ vài tuần vẫn chưa thấy ngày khởi hành. Tôi hỏi Thuận mãi mới biết anh đang đợi công lệnh để xà lan quốc doanh đi Vũng Tàu, rồi từ đó sẽ đi về hướng Thái Lan. Lại chờ thêm một tuần, chưa thấy lệnh khởi hành, tôi hỏi anh Thuận, anh cho biết đã có công lệnh chuyển hàng đi Vũng Tàu nhưng chưa đủ số dầu để xà lan đi đến Thái Lan. Tôi gợi ý cho anh Thuận làm công lệnh giả để lấy 15 thùng dầu ở Nhà Bè Tân Thuận. Công lệnh giả làm xong lại có một trở ngại là có một bộ đội đi theo xà lan. Ban tổ chức lại bàn và cuối cùng quyết định sẽ bắt trói bộ đội đi theo nếu cần và ngày 19 tháng 10 được định là ngày khởi hành.

Sáng 18 tháng 10 năm 1977, tôi lên xe vận tải do anh Thuận lái, tôi ngồi đằng trước cạnh tài xế, Thành và Hiến em tôi ngồi sau, chúng tôi đến kho xăng Nhà Bè lấy 15 thùng dầu. Đến cửa kiểm soát, Thuận đưa công lệnh cho bộ đội an ninh. Anh bộ đội trẻ, nhìn công lệnh thốt lên: “Sao lấy nhiều dầu thế, để phải xem lại có phải công lệnh thật không?” Tôi nhìn quanh từ anh Thuận, đến Thành và Hiến, ba người đều run lên và xanh mặt. Tôi nghĩ, thế này chắc phải đi tù rồi. Tôi bước xuống, mở cửa xe, đi vòng trước mũi xe đến trạm gác, dằng tờ công lệnh từ anh bộ đội “anh cứ việc gọi về cơ quan để hỏi lại, nhưng nếu công lệnh thật anh sẽ bị khiển trách vì tội không tuân lệnh và anh sẽ bị mất việc”. Ván bài xì phé này có hiệu quả, anh bộ đội đọc lại công lệnh một lần nữa và cho chúng tôi vào kho xăng lấy 15 thùng dầu. Tôi đứng chỉ huy 3 người khiêng 15 thùng dầu lên xe vận tải trở lại xà lan đậu trên bến sông Saigon, cạnh tượng Đức Mẹ Fatima (10 năm sau gặp lại tôi ở Houston, Thành thú nhận với tôi rằng chiều hôm ấy anh chỉ chờ công an đến bắt và không hề nghĩ tôi là bác sĩ vì dáng đi, giọng nói và bộ đồ bộ đội tôi mặc trên người).

Đêm 18 tháng 10, 4 người chúng tôi nằm ngủ trên xà lan, mùa hè trời nóng, làm quen nhau nói chuyện đời vu vơ bên cạnh sông. Tiếng dế, tiếng ve mùa hè gợi nhớ những mùa hè thời đi học. Ngồi uống với nhau vài ly rượu trên xà lan, chúng tôi lòng thì lo nhưng vẫn cố nghĩ một cách tích cực đây là một mùa hè cuối trên quê hương.

Sáu giờ sáng mùa hè, trời sáng nhanh, chúng tôi mới có dịp nhìn lại “bãi đáp” cạnh ruộng mía. Đêm qua, trời tối chúng tôi không biết ruộng mía giờ chót đã bị đốn! Bãi bốc người trở nên trơ trọi nhưng không còn kịp thời gian để thay đổi kế hoạch. Sáu giờ sáng, 4 người chúng tôi đón đoàn người vượt biên đến nơi xà lan đậu, 100 người đến như đi cắm trại. Những gia đình khá giả như gia đình ông Lâm Văn Phúc và Francois đi vượt biên như đi dọn nhà mang hết va li của cải. Họ đi ngờ ngờ qua ruộng mía trơ trọi. Công an khu vực đến hỏi, bà Tướng Lâm văn Phát có hai con, một trai một gái, đi trong nhóm vượt biên trả lời cho công an là đoàn người này đi Picnic. Mọi người hồi hộp chờ công an đến bắt trong khi một số đang lần lượt chui xuống xà lan qua một lỗ thông hơi có đường kính đủ để một người vừa tầm chui lọt. Tôi và mấy người lái xà lan ở trên Connex. Đến bây giờ tôi vẫn không hiểu tại sao chúng tôi có thể rời Bình Triệu mà không bị bắt. Đi đến cầu Bình Lợi, xà lan với Connex cao không chui lọt được qua cầu, chúng tôi phải đợi con nước xuống. Đứng ở trên xà lan, tôi nhìn bộ đội canh gác trên cầu, họ đi qua đi lại nhìn xuống xà lan mà không hề nghĩ có hơn 100 người đang trốn dưới hầm. Buổi trưa dưới hầm, sức nóng lên, tối tăm với vài ngọn đèn điện treo lờ mờ như địa ngục. Trẻ em thi nhau khóc, con bé con tôi, 16 tháng bị chích thuốc ngủ Valium vẫn không chịu ngủ mà tiếp tục la khóc. Có người đòi nhét giẻ vào miệng cho nó im vì sợ bị bắt. Mẹ và dì nó thì phải thay phiên nhau người quạt người lấy nước dưới hầm lau mình cho con bé. Không hiểu cái địa ngục vượt biên có đáng giá hơn cái thiên đường Cộng Sản Việt Nam sau 1975?

Sau 2 giờ chiều nước xuống xà lan mới qua được cầu Bình Lợi. Chiếc xà lan trôi trên sông Saigon có lúc được các thuyền đánh cá cập vào bị chúng tôi đuổi xa ra. Chúng tôi thay nhau lái xà lan trên sông, dễ dàng như đi du thuyền. Ngoài thuyền đánh cá còn có những chiếc thuyền tuần bộ đội cặp theo xà lan, chúng tôi vừa lái xà lan vừa tán gẫu với thuyền bộ đội. Họ nghĩ chúng tôi chở hàng quốc doanh nhưng không ngờ là xà lan vượt biên. Hai giờ sáng xà lan ra đến cửa Cần giờ. Đêm không trăng, biển đen lặng, ngọn đèn pha trên núi nhỏ Vũng Tàu là ánh sáng duy nhất dẫn đường ra biển. Thuận tắt máy xà lan, loay hoay thoát khỏi những tấm lưới đánh cá bám vào chong chóng của máy. Mất hơn một tiếng, xà lan mới mở máy chạy lại. Tôi nhìn lên Hải Đăng nhớ lại những lần cắm trại Hướng Đạo của Đoàn Chương Dương trên vùng lô cốt trên núi nhỏ và trên ngọn Hải Đăng ấy nhiều lần tôi đã ngồi trên núi, ngắm biển và những ngọn đá trên bãi biển dưới Tịnh xá Ngọc Bích, mơ về những chuyến hải hành nhưng không hề tưởng tượng được một ngày sẽ đi trốn ra khỏi đất nước thân yêu bằng chuyến vượt biên. Trong khi đó ở dưới hầm, trái lại, mỗi lần có cơn sóng nhỏ xà lan bồng bềnh như tấm ván, sóng đánh vào lỗ thông hơi đi xuống hầm, mọi người bị ướt, rét run vì lạnh. Một hai chiếc võng bị đứt, trong đó có vợ con tôi, khiến người nằm bị rơi xuống hầm xà lan đầy nước. Lạnh, tối và run, mọi người chỉ mong xà lan đi xa ra biển để được lên trên sàn xà lan. Ngày đầu tiên được lên sàn xà lan, thấy ánh mặt trời là ngày hạnh phúc với những tiếng reo vui. Mọi người quăng mũ lên trời hét lớn: “đả đảo Việt cộng!”

Ngày 24 tháng 10 năm 1977. Xà lan đi ra biển từ cửa Cần giờ, 5 ngày sau thì bị hỏng máy. Sự thật là các ông Thuận, Hòa và các tài công phụ không ai rành về cơ khí và hàng hải. Trong đầu mọi người in rõ bản tin BBC, cứ đi ra được hải phận quốc tế là có tàu Mỹ cứu cho nên chỉ dự trù xà lan đi được ra biển, không nghĩ đến việc đi đến Thái Lan. Xà lan trôi đến đảo Côn Sơn, không có la bàn và bản đồ nhưng đảo Côn Sơn hình dáng quen thuộc với nhiều người. Một chiếc tàu tuần đi ngang qua, mọi người trốn xuống khoang xà lan, bộ đội cũng không buồn khám xét, trao đổi qua loa vài tiếng rồi bỏ đi. Ban tổ chức có sáng kiến, gom hết “pông-sô” làm buồm lái về phía Thái Lan. Xà lan lênh đênh trên vịnh Thái Lan, biển yên, gió mát. Mọi người lên xà lan, các nhóm vượt biên bắt đầu làm bạn với nhau. Ban ngày anh em trẻ nhảy xuống biển tắm, bám lấy xà lan xem như picnic thật. Buổi tối, tiếng hát vọng cổ của Thành, tiếng hát với chương trình tân nhạc của các bạn trẻ Duy Anh, Phong, Vinh v.v… vang lên trong đêm với những ngọn lửa được đốt lên giữa xà lan, vui như đêm lửa trại ở giữa đại dương mịt mùng…

Hai ngày sau thực phẩm dự trữ mang theo bắt đầu cạn. Ban tổ chức được mở rộng với sư huynh Bá, tôi và ông Lâm văn Phúc áp dụng chính sách công xã gom thực phẩm của tất cả các nhóm trên xà lan, tập trung và chia đều khẩu phần hàng ngày. Thùng nước trên xà lan được khử trùng bằng Chlorine, đun nấu ăn và để uống. Mỗi gói cơm sấy được nấu thành cháo chia cho gia đình 10 người. Giống như chuyện trong Thánh kinh, những ngày đầu chúng tôi bắt được rất nhiều cá. Cá nuôi mọi người, ngày ăn cá nướng hai, ba bữa nhưng sau phải phơi cá để dành cho những ngày sắp đến. Buổi tối, xà lan chia làm hai nhóm, một nhóm Công giáo do sư huynh Bá cầm đầu đọc kinh cầu nguyện, nhóm Phật giáo tự ngồi với nhau yên lặng cầu Phật Bà Quan Âm.

Qua đến ngày thứ 10, hy vọng thấy đất liền mong manh. Mọi hy vọng đặt vào tay ông thầy bói duy nhất trên xà lan là Duy Anh, những quẻ bài giúp mọi người nuôi hy vọng, mọi người hứa sẽ làm việc thiện khi đến được bến bờ. Hy vọng nhóm lên trong mười ngày khi chúng tôi gặp hơn 4 chiếc thuyền buôn lớn đi qua. Chúng tôi đốt lửa báo hiệu, vẫy tay, đánh cờ Semaphore bằng quần áo, nhưng hy vọng tắt dần khi những chiếc thuyền ấy đã bỏ đi mặc dù thấy nhóm người chúng tôi bơ vơ giữa biển trên chiếc xà lan nhỏ bé. Sự thật khác hẳn với những bản tin của đài BBC về những thuyền nhân được vớt trên biển bởi hạm đội thứ bảy. Những gói thuốc lá chương trình văn nghệ về đêm tắt dần. Sống tuyệt vọng và thiếu thốn, cái đói và chết đến dần trước mắt. Cái tuyệt vọng tận cùng đã làm mọi người không còn tin vào Trời, vào Phật, vào Chúa.

Chiều ngày thứ 11 của chuyến hải hành. Biển êm sóng lặng, chúng tôi chợt thấy một chiếc thuyền đánh cá, neo lại giữa, từ phía xa chân trời. Hy vọng lại vươn lên trong buổi chiều trên biển. Từ xa, chúng tôi nhìn thấy rỏ những ngư phủ trên thuyền. Chúng tôi vẫy tay, chúng tôi la hét, chúng tôi phất quần áo làm cờ ra hiệu nhưng không thấy những người trên thuyền đáp ứng. Cuối cùng sau vài giờ, sự may mắn đã đến như một sự tình cờ hay như một phép lạ? Lưới đánh cá của thuyền trôi ngay gần chiếc xà lan! Hai người bạn trẻ tuổi, Đức và Thành can đảm nhảy xuống biển, bơi đến chiếc lưới, bám chặt lưới cho đến khi các ngư phủ Thái Lan kéo cả hai lên thuyền. Mọi người trên xà lan nhìn theo hồi hộp chờ đợi. Hơn nửa tiếng, sau khi Đức và Thành điều đình, chiếc canoe nhỏ của chiếc thuyền chài chở vài ngư phủ Thái với Đức và Thành chạy về xà lan. Những tiếng reo hò, những tiếng cười, những giọt nước mắt mừng rỡ, những tiếng reo vui chấm dứt cơn ác mộng đầu tiên của 11 ngày trên vịnh Thái Lan.

Chiếc xà lan của chúng tôi được những ngư dân Thái kéo vào thành phố Pattani ở bờ Đông Thái Lan vào ban đêm. Những ánh đèn thành phố nhìn từ ngoài biển là những ánh sáng hy vọng. Xà lan bị cô lập ở bến Pattani. Cảnh sát lên kiểm tra, chúng tôi không chánh thức được lên đất liền nhưng được phép tiếp xúc với dân địa phương, được mua hàng, được uống lại Coca Cola lần đầu tiên từ hơn 2 năm sau ngày được “giải phóng”. Những chai Coca Cola quen thuộc giống như những chai Coca uống mỗi bữa trưa trong quán “Ma Soeur” ở trường Y khoa Saigon. Những chai Coca mà tôi nằm mơ trong hơn 10 ngày trên xà lan ngoài tiếng kêu của con gái tôi “bé muốn ăn cơm” khi trời về chiều trên biển. Ôi Coca và nước dừa từ những hàng dừa trên bờ biển Thái Lan! Anh em chúng tôi, Hồng, Loan, Hiến, anh Hải, Thắng, Đức, Thành được chở đi trên những chiếc thuyền tam bản nhỏ lên đảo cát trắng và những hàng dừa xanh. Tôi làm quen với những nguời lính Thái Lan, trả tiền nhờ họ đánh điện tín qua Pháp nhờ người quen ở đó loan tin về Việt Nam. Chúng tôi bàn với Đức, nhân dịp làm bạn được với dân địa phương hãy tìm cách trốn lên tỉnh, từ đó lấy xe lửa lên Bangkok vì Đức độc thân, có thân nhân có thể nhờ chính quyền Thái Lan can thiệp để nhận chúng tôi vào trại tạm cư.

Hai ngày ở lại trên bờ Pattani, chúng tôi mua thêm thực phẩm trước khi xà lan sửa chữa và bị tàu Thái hộ tống đưa ra biển hướng về phía Songkhla nơi có trại tị nạn cho người Việt vượt biên. Xà lan đi 2 ngày, đến Songkhla, thấy bến nhưng bị tàu tuầnThái chĩa súng đuổi ra. Đi một quãng không xa, chúng tôi gặp một chiếc tàu tị nạn loại thuyền đánh cá lớn (cũng bị Thái từ chối không cho cặp bến Songkhla). Trên thuyền có Nha sĩ Phúc (sau định cư ở Oregon) trong gia đình Y khoa ,vì vậy chúng tôi đề nghị chiếc xà lan sẽ đi cùng chiếc thuyền đánh cá trong trường hợp cần tương trợ lẫn nhau. Chiếc thuyền đánh cá nhiều phương tiện ấy bỏ chúng tôi đi không trả lời.

Một ngày sau, xà lan lại chết máy. Bổn cũ soạn lại, “pông sô” áo mưa kết lại làm buồm, giăng buồm đưa xà lan đi theo hướng gió. Xà lan trôi nổi
7 ngày, tháng 10 nhờ có luồng nước kéo xà lan vào bờ, tấp lại vào Songkhla. Nhờ đủ thực phẩm, nước sông chứa dưới hầm xà lan lúc ra đi cho đỡ nóng dù dơ bẩn có trộn lẫn nước tiểu của các em bé nhưng có Chlorine khử trùng, nên đoàn người dù tuyệt vọng nhưng đầy đủ hơn lần trôi nỗi 11 ngày trước.

Xà lan tấp bến. Chúng tôi bồng bế nhau, già trẻ lớn bé lội xuống biển, đến bờ dân Thái Lan tràn lên xà lan quăng hành lý xuống biển và cướp đi luôn, máy tàu bị họ phá và quăng xuống biển. Cả đoàn phải ở ngoài bờ biển, màn trời chiếu đất, ban đêm chúng tôi đào những hố cát để làm giường tránh gió và canh chừng cho các bà các cô, sợ dân Thái Lan hãm hiếp. Ban ngày dân địa phương bu quanh nhìn chúng tôi bị rào bởi vòng rào dây thừng như đi xem sở thú. Họ quăng đồ ăn, quăng trái cây vào như cho khỉ ăn, nhớ cảnh cũ nghĩ lại cười ra nước mắt. Mất của, nhiều người buồn như ngày bị Việt Cộng đánh phá tư sản mại bản. Tự do chưa thấy chỉ thấy người bóc lột người.

Ba ngày sau, ông tỉnh trưởng Songkhla xuất hiện với lính cận vệ. Họ dẫn theo 67 thuyền nhân khác đi bằng thuyền từ Phú Quốc đến Songkhla, chính sách Thái lúc bấy giờ không nhận người tị nạn. Những người này bị đuổi ra bãi để nhập chung với nhóm chúng tôi. Tôi biết nói chút tiếng Mỹ đứng nói chuyện với tỉnh trưởng Songkhla xin ở lại. Tỉnh trưởng Songkhla giở thói bạo động, cầm gậy chỉ huy đánh vợ tôi đang bồng con trên tay miệng thì la: “Let’s go”, các con của chị Mai bị giằng ra khỏi tay mẹ, họ ném từng đứa bé lên xà lan, các bà mẹ nhìn con đau lòng xé ruột đành phải theo con. Lính Thái đánh anh Hải chảy máu mũi. Tôi đứng bên cạnh ông tỉnh trưởng, nổi nóng tiến gần ngay cạnh ông ta, cận vệ sợ tôi đánh ông tỉnh trưởng, một người vội vàng rút khẩu súng Colt lên đạn chĩa vào đầu tôi. Một trung sĩ cận vệ tử tế, nói nhỏ với tôi: “Bác sĩ nên đi lên thuyền đừng chống cự, họ sẽ bắn ông thật đấy”. Tôi chỉ còn biết nhìn ông tỉnh trưởng với cặp mắt căm thù. Ba người lính, 2 nguời sốc nách, một người khiêng chân quăng tôi lên xà lan. Đoàn người tị nạn Phú Quốc và xà lan lục tục kéo nhau đi theo lên xà lan không dám chống cự trước các họng súng.

Chiếc xà lan không máy bị tàu tuần Thái kéo ra biển vào lúc rạng đông, dân Thái đứng trên bờ gọi cho bao gạo và xin đưa con nít cho họ nuôi. Chúng tôi có độ một tiếng múc nước biển đổ vào khoang xà lan để làm nước uống trong trường hợp nước trong thùng mang theo cạn. Một cuộc trao đổi với tàu tuần Thái để họ kéo xà lan về biên giới Mã Lai, đổi lại là họ lấy hết các thùng dầu, vàng bạc, đồng hồ, giây chuyền của người trên xà lan, nhưng lính tuần Thái đã lừa dân tị nạn kéo thẳng xà lan ra hải phận quốc tế, họ cắt dây, thả trôi rồi chỉa súng cười chọc ghẹo bỏ đi. Họ cố tình cho chúng tôi chết trên biển. Lần này chúng tôi trôi nổi ngoài khơi Thái Lan đúng vào 100 ngày Mẹ tôi mất. Lênh đênh và lênh đênh, không tương lai không bờ bến. Chúng tôi ngồi trên xà lan, nhìn trời ban đêm và tự hỏi định mệnh có thể tàn nhẫn đến mức trùng hợp ngẫu nhiên với cái chết của Mẹ tôi?

Ngày thứ 5, một chiếc phi cơ bà già L19 bay qua ngang trên xà lan. Trong cơn tuyệt vọng chúng tôi nghĩ là tiếng cầu cứu của Đức (cháu bà Cao Văn Viên) đã đến tai chính quyền Bangkok, chiếc L19 là chiếc máy bay đi tìm chúng tôi. Cả đoàn người trên xà lan, ngây thơ gom góp gạo và thực phẩm nấu cơm làm tiệc ăn mừng hụt !

Sau bẩy ngày đêm, “ trôi nổi nhưng không chìm”, tiếng cầu trời được đáp ứng, mưa to gió lớn, một cơn bão dến trong vùng Vịnh đánh chiếc xà lan vào bờ thị trấn Narathiwat, cạnh biên giới Thái – Mã. Xà lan đáp vào bờ. Chúng tôi nhảy xuống biển lội vào gặp những người Thái lan hung dữ cầm dao phay, mã tấu đứng trên bờ chờ đợi xua đuổi chúng tôi. Trong cái cảnh khốn cùng, chúng tôi không còn cách nào khác hơn là van xin và hối lộ. Cuối cùng thì cũng có những người tốt trong làng, còn từ tâm, nhìn thấy chúng tôi không phải là những người có thể làm hại họ, nhất là nguời cầm đầu là bác sĩ. Phong tục tập quán người Thái cũng như người Việt, họ vẫn kính trọng giới Y. Nghĩ lại, những người Thái Lan dân làng Narathiwat đứng trước một đám đông hàng trăm người mặt mũi đen đúa, đầu tóc kinh dị, quần áo tơi tả chắc họ cũng sợ. Ở trên xà lan hơn mấy tuần, khói dầu diesel đóng lên mặt mũi, thân thể chúng tôi đen như mọi Phi Châu. Khi lên bờ, chúng tôi phải mất một hai ngày tắm rửa, cạo chùi hết dầu diesel ở da và tóc. Mọi người còn cảm thấy đầu tóc ngứa ngáy, chải đầu mới thấy chí rận rơi xuống. Nhiều trẻ em da bị lở loét vì nắng và dầu. Con bé Ngọc của chúng tôi, ngày xuống xà lan, ăn mặc tươm tất, quần áo đẹp đẽ tự tay bà ngoại may, khi bước ra khỏi khoang xà lan đã thành “cô bé lọ lem”, quần áo dính nước sét hầm xà lan đổi thành màu cháo lòng. Bà ngoại nếu có mặt lúc đó chắc cũng không nhận ra được cháu bé!

Lần này chúng tôi may mắn hơn vì có anh Quân của tàu Phú Quốc là con một bang trưởng người Hoa gặp người quen nên những người này đem quần áo, thực phẩm và lều đến dựng lên cho chúng tôi ăn ở tạm. Ông quận trưởng lần này lại là người có đạo đức, đối xử rất tử tế. Chúng tôi sống 5 ngày trên bãi biển, chờ đợi quyết định của ông quận trưởng. Ngày thứ 5, quận truởng Narathiwat kêu chúng tôi dọn dẹp lều chõng để đưa tới một nơi tốt hơn. Ông cho một chiếc xe buýt chở ngay ra bờ biển, một chiếc tàu tị nạn Việt Nam bỏ lại đã đậu sẵn nơi đó. Hôm ấy trời rất tối, hơn 10 giờ đêm, tôi cảm thấy không được an toàn nên xin ông quận trưởng đổi ý kiến đợi sáng hãy bắt chúng tôi ra đi. Chúng tôi chấp nhận đi đến Mã Lai nhưng chờ trời sáng mới rõ đường đi. Ông quận trưởng cho chúng tôi ngủ lại ban đêm ở truờng học quận. Ông quận trưởng là người tốt phải thi hành chỉ thị cấp trên. Buổi sáng sớm 5 giờ, chính ông đến chia tay với tôi và ngậm ngùi đưa tiễn đoàn người xuống ghe khác hẳn với thái độ của tỉnh trưởng Songkhla. Thế mới biết cùng một công việc con nguời có thể thực hành với hai phương cách khác nhau.

Chiếc thuyền đánh cá nhỏ chứa 168 người tị nạn không đi nổi vì quá nặng, lính Thái đưa tất cả đàn ông trai trẻ lên hết tàu tuần rồi kéo ra khơi. Hôm ấy thay vì ở trên tàu tuần với các ông, tôi qua thuyền đánh cá, chui xuống hầm thuyền theo lời yêu cầu của vợ. Đi độ 500 mét thì thuyền đắm, sóng đổ xuống nóc hầm. Ở dưới hầm, ngộp với những con sóng, đổ xuống như thác đổ. Dưới hầm có chứa gạo và đồ tế nhuyễn của một số người giàu có trong đoàn người tị nạn mua sắm ở Narathiwat, họ sợ mất đồ vật quí giá nên đóng chặt nắp hầm tàu. Gần bị chết ngộp, tôi phải dùng hết sức tung nóc hầm nhảy lên cứu được vợ con và mấy đứa trẻ khác đi với mẹ nó ngồi chung dưới hầm thuyền. Tôi đứng trên chiếc thuyền bị sóng đánh chìm một nửa, cố bám vào thành ghe, tay ôm vợ con cho đến khi tàu Hải Quân đến vớt đưa vào bờ. Cả đoàn người tị nạn sống sót, không ai chết, được ở tạm trú trong chợ cá cạnh bến tàu.

Chúng tôi ở trong chợ cá một tuần lễ. Những người Thái trong quận biết vợ chồng tôi là bác sĩ đã đến mời chúng tôi đi thăm bệnh tại nhà cho họ, thuốc men không có chỉ chẩn bệnh, viết tên thuốc khuyên họ đến nhà thuốc tây mua thuốc. Trong một tuần, có nhiều bệnh nhân đến mời xem bệnh với thù lao là những gói mì, những bửa cơm tươm tất cho các anh em tôi thay cho những bữa cơm trắng chan sữa đặc hay chan nuớc cà ri không thịt lúc ban đầu khi mới bước chân lên đất liền với hai bàn tay trắng. Trong đoàn người Hoa từ Phú Quốc, có anh em Quân và Tang đã tương trợ chúng tôi nhiều. Người Hoa đùm bọc nhau hơn người Việt, họ biết 2 anh là con ông bang trưởng lập tức chở gạo, chở thực phẩm cưú trợ. Anh Tang (nay ở bên Úc) là ân nhân của gia đình tôi. Khi xà lan bị sóng đánh, chiếc bình chứa nước trên tay Hậu, cháu tôi, rơi xuống biển, Hậu bơi theo vớt chiếc bình nylon, sóng đánh Hậu trôi dạt xa xà lan. Tang đã buộc dây ngang bụng một đầu được anh em trên xà lan giữ để Tang nhảy xuống bơi cứu Hậu, cháu đích tôn của gia đình tôi, đem về xà lan. Nhờ nhóm người Phú Quốc, rồi đây vài ngày sau chúng tôi có những tài công giỏi để lái thuyền đi về phía Mã Lai.

Một tuần ở Narathiwat, vợ chồng tôi thân với vợ chồng một y tá trẻ, ngành quân y Thái. Hai vợ chồng không con, quyến luyến với chúng tôi trong tình y khoa. Họ nghĩ là chúng tôi sẽ phải ra đi sau khi ghe được sửa chữa, chúng tôi sẽ không được đưa về trại tị nạn ở Thái Lan như chúng tôi tuởng. Họ nói với tôi là họ không nghĩ chúng tôi sẽ có thể sống sót trong cuộc hành trình sắp đến và họ xin cho bé Ngọc ở lại làm con nuôi, nếu chúng tôi may mắn đến được đất liền, qua Mỹ lúc ấy chúng tôi có thể lảm giấy tờ hội ngộ. Đề nghị tử tế và thành thật này làm chúng tôi bâng khuâng và suy nghĩ. Em tôi, Hồng và Hiến họp lại đêm hôm ấy nói rằng: “Sống chết có nhau, nay đã đi đến đây chỉ còn một quãng đường ngắn, anh em có xui xẻo thì xui xẻo cùng”. Vợ chồng tôi đã quyết định để bàn tay Trời định đoạt.

Ngày thứ 7, đang ngái ngủ thì bị đánh thức dậy đuổi đi xuống tàu. Đoàn người chúng tôi lại lên đúng chiếc tàu chìm tuần trước, chưa được sửa lại hoàn toàn. Rút kinh nghiệm, lính Thái chia chúng tôi làm hai đoàn. Một nhóm ở trên tàu tuần, một nhóm chuyển xuống thuyền đánh cá, ra ngoài khơi lính Thái trên tàu tuần chuyển nhóm người còn lại xuống thuyền. Nhóm Phú Quốc lái thuyền chạy dọc bờ biển về phía Mã Lai. Thuyền đi được một đoạn ngắn thì bị lủng, nước tràn vào thuyền, chúng tôi ngồi chen chúc như cá mồi trong hộp. Thanh niên thay nhau chia phiên tát nước. 3 giờ sáng, thuyền đến bờ Trengganu, các anh em tài công Phú Quốc có kinh nghiệm không lái ghe thẳng vào bờ vì họ nghi bãi biển có đá ngầm nên neo lại ngoài khơi. Đến sáng, chúng tôi nhìn thấy bãi biển quả nhiên có đá ngầm các tài công Phú Quốc dùng dây kéo thuyền vào bờ. Thuyền mắc cạn, bị sóng đánh vỡ. Tôi lên bờ trước làm người lãnh đạo, nói tiếng Anh với cư dân Mã Lai tỉnh Trengganu, quay nhìn lại thấy đoàn người đổ bộ lên bờ từng nhóm, chú Hồng bồng cháu Ngọc đi cạnh vợ tôi và các anh em trong gia đình. Chúng tôi được ở lại trên bãi biển vẫn màn trời chiếu cát, vẫn cảnh người Mã Lai xúm lại xem nhưng dân Mã lai hiền hơn dân Thái Lan và chúng tôi vững tin rằng lần này với chiếc thuyền đánh cá vỡ tan từng mảnh chúng tôi sẽ được đưa vào trại tị nạn Mã Lai.

Tính từ ngày rời Saigon ngày 19 tháng 10, 1977 đến ngày đến bãi Trengganu tổng cộng 42 ngày. Trong đoàn người có 60 phụ nữ và 60 trẻ em. Chúng tôi may mắn không bị nạn hải tặc, không có người bị bệnh nặng, không có người phải bỏ xác trên biển. Trong những ngày cùng khổ, bản chất xấu của con người lộ ra nhưng những người tốt vẫn sẵn lòng đùm bọc lẫn nhau. Chúng tôi đã sống tuyệt vọng, thấy cái chết gần kề như ông Lâm Văn Phúc đã tả lại cảnh vượt biên ngay khi đến trên Hồn Việt 20 năm trước, còn những giòng nhật ký tôi viết trong trại tị nạn Pulan Besar được Ngọc Phu và Mai Thảo xin đăng lên Hồn việt đã đánh mất 31 năm trước.

Cuộc đời như nước chảy qua cầu . . . những người trong chuyến du hành kỳ diệu, có người thành công, có người thất bại ở Hoa Kỳ, ở Úc, ở Pháp . . . có người đã mất, nhìn lại như một giấc mơ.

Cuộc đời trôi nổi. Tôi rời Việt Nam 32 năm, đảng Cộng Sản biến đổi thành một đảng Mafia, đảng ấy làm một điều đúng trong thời thủ tướng Võ Văn Kiệt, “xóa tội” cho những thuyền nhân, “đi có tội, về có công”. Người tị nạn trở về thăm nhà. Những nhân vật . . . lịch sử bạn tôi cũng thay đổi theo thời gian, những người đã là những lý do gián tiếp đã khiến tôi bỏ nước ra đi cũng học được nhiều bài học đáng giá trong đời. Con người khôn ngoan Dương Văn Đầy chết vì chấn động cơ tim một ngày trước khi bị điều tra về tội tham nhũng. Bác sĩ Huỳnh Tấn Mẫm về làm y sĩ điều trị trung tâm AIDS hội Hồng Thập Tự, vợ anh bị án tham nhũng. Nguyễn Thanh Công (bộ râu quai nón đã cạo không còn là “Công Râu”) sau vụ Nguyễn Hộ, đổi qua ngành địa ốc, không dính líu đến chánh trị, bà vợ là bầy trưởng Hướng Đạo trong Đoàn của tôi tìm con đường lên thiên đàng không Cộng Sản.

Ngày hôm nay, ngồi ghi lại chuyện đời trên hơn 30 năm, lòng tôi không hề hối tiếc về một chuyến đi và vẫn còn những xúc động của những tháng ngày lênh đênh . . .


Việt Nguyên
13/12/2009
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Tháng Tư Đen và Đời Đá Vàng

Post by uncle_vinh »

MỘT CHUYẾN ĐI

VĨNH NGỘ


Đúng 4 giờ sáng ngày 1-4-1980, chiếc thuyền nhỏ trang bị như một ghe lưới bờ của tôi chở mười tám người chui qua gầm Cầu Đúc để tiến ra cửa biển Rạch Giá. Con đường này, giờ giấc này là kết quả của một cuộc thăm dò. Cả tháng trời, trước khi ra đi, tôi đã giả dạng làm một phu khuân vác ở bến cá biển thị xã Rạch Giá, từ xế nửa đêm cho đến rạng sáng hôm sau, để theo dõi sinh hoạt của ghe lưới ra khơi cùng với “sự thức ngủ” của hai đồn công an biên phòng ở hai bên, ngay cửa biển. Mỗi đêm, từng đoàn ghe đánh cá theo đuôi nhau ra khơi. Họ đi từng đợt theo cỡ của thuyền vào những giờ khác nhau. Bọn bò vàng thường xét hỏi những chiếc ghe lớn, nhưng thỉnh thoảng mới chận một vài chiếc ghe lại, có lẽ do nghi ngờ thôi, và cứ gần 4 giờ sáng là cả hai đồn tắt đèn, ngưng rình rập. Khi hai mắt của hung thần nhắm lại để ngủ là giờ ghe lưới bờ làm ăn. Gọi là lưới bờ vì ghe nhỏ và chỉ trang bị lưới để đánh cá gần bờ biển mà thôi. Chờ cho vài chiếc ra trước, thuyền của tôi lầm lũi theo sau, ra khơi an toàn.

Đêm đen mịt mùng, cửa biển vẫn êm ả như mặt hồ. Tôi ngoái nhìn về phía sau, những ánh đèn nhấp nháy của khu chợ cá mờ dần rồi lẫn mất trong màn đêm. Tự nhiên, hai hàng lệ tôi tuôn dài không ngăn được. Đằng sau tôi là một quê hương bỏ lại, trước mặt là hiểm nguy khôn lường của bể cả mênh mông. Biết tôi có đủ sức để lèo lái con thuyền mong manh đến bến bờ tự do không. Sinh mạng của vợ con, em cháu đang nằm trong tay tôi, một thuyền trưởng bất đắc dĩ không có một chút kinh nghiệm nào về hải hành, đang lái tàu như chơi một ván bài sinh tử. Tự do hay là chết. Không còn lựa chọn nào khác. Những may rủi sẽ đến làm sao biết trước được. Phó mặc cho Thượng đế an bài, nhưng tôi vẫn tin rằng Chúa hằng quan phòng cho người có lòng lành và Phật luôn độ trì cho kẻ có thiện tâm, nên tôi cứ vững tâm đi tới với lòng cầu nguyện bình an.

Thuyền trực chỉ hướng Nam tiến xuống mũi Cà Mau, giữ khoảng cách với bờ biển phía trái như đang giữ đúng cự ly của ghe lưới bờ thực sự. Mặt trời lên, ánh sáng bỗng bùng vỡ, rồi rải xuống mặt bể chan hoà, tung toé những tia sáng đẹp như vàng ròng. Bình minh trên biển khơi đẹp tuyệt vời. Nỗi ám ảnh của tù đày nếu bị bắt lại trên bờ phai dần, nhường chỗ cho nỗi lo sẽ gặp tàu đánh cá quốc doanh khi chưa ra đến hải phận quốc tế. Trời sáng rõ, mặt biển phẳng lặng phản chiếu ánh nắng rực rỡ. Nỗi lo vẫn canh cánh bên lòng vì ra tới biển khơi chiếc thuyền của tôi thấy càng nhỏ đi, như một chiếc lá trôi bềnh bồng trên dòng nước. Bỗng cậu em giữ nhiệm vụ quan sát chiếu ống nhòm về phía sau, báo cho tôi biết có một chiếc ghe đang đuổi theo. Tôi cho thuyền tăng tốc độ, nhưng chiếc ghe phía sau càng ngày càng hiện rõ, hình dạng rất bề thế và chạy khá nhanh. Tôi hồi hộp chờ đợi. Chiếc ghe lạ tiến đến, giảm tốc độ để chạy kè theo ghe của tôi. Khoảng cách khá gần, hai bên nhìn rõ mặt nhau. Một thanh niên mặc quần tây, ở trần, tóc dài tung bay theo gió, đang đứng sau buồng lái, giơ tay lên vẫy. Tôi đưa tay lên chào lại. Chàng ta chồm người qua hỏi chuyện nhưng tiếng nói bị gió thổi bạt đi. Nói xong, tay phải giơ lên, chỉ ngón tay cái mấy lần về phía tây và cười. Chiếc ghe ấy chạy nhanh lên và quay góc 90 độ về hướng tây. Thật là hú vía. Vừa gặp một bạn đồng hành. Nếu là tàu đánh cá quốc doanh thì đã có gắn lá cờ máu, ít nhất một thằng mang súng đứng ở mũi tàu. Và đời tôi kể như tiêu tùng, giờ đây không ngồi viết những dòng chữ này. Tôi thận trọng chờ cho chiếc ghe ấy chạy mất dạng rồi mới chuyển hướng, tây tiến.

Biển êm, gió nhẹ. Thuyền lướt sóng nhẹ nhàng tiến về bờ biển Thái Lan, hướng Tây Nam. Mục tiêu của tôi là Songkhla, một tỉnh giáp giới Mã Lai. Nếu không vào được, thuyền sẽ thả xuống đảo Bidong của xứ Mã. Đến 4 giờ chiều, bầu trời xanh trong quang đãng bỗng ngã màu xám, rồi chỉ trong phút chốc mây đen ùn ùn kéo đến. Thuyền bắt đầu chao đảo vì mặt biển nổi sóng và gió thổi mạnh. Trời tối thật nhanh. Mưa đổ xuống từng cơn. Khi mưa khi tạnh, kéo dài như thế suốt đêm. Tôi cố gắng giữ vững tay lái cho thuyền chạy đúng hướng. Đầu óc tôi căng thẳng nhưng vẫn tỉnh táo. Mọi người đã chui xuống hầm tránh mưa gió, chỉ còn tôi, tên tài công cô độc, đang một mình đương cự với biển cả mịt mùng mưa bão trên con thuyền nhỏ bé, mong manh. Gió vần vũ xoáy nước mưa vào buồng lái. Quần áo, đầu cổ mặt mày của tôi ướt đẫm, thỉnh thoảng phải vuốt mặt, mở căng mắt cố chọc thủng màn đêm trước mặt. Hình như, tôi đã được một quyền năng vô hình trợ lực, vì trong giờ phút hãi hùng đó tôi vẫn không nao núng. Và, lạ lùng thay, tôi lại có một vị cứu tinh. Đó là sao Nam Tào. Trừ những lúc mưa quá lớn không còn thấy trời nước gì hết, những lúc khác sao vẫn nhấp nháy hoặc sáng tỏ để chỉ đường cho tôi đến bến bờ mong ước.

Sáng ngày thứ nhì, khi mặt trời nhô lên khỏi mặt biển ở sau lái thì trời ngưng mưa, gió dịu lại một chút nên sóng cũng bớt hung hãn không như trong đêm vừa qua. Tôi bàn giao tay lái cho một đứa em rồi chui xuống hầm xem tình hình sức khoẻ của mọi người. Người lớn trông tiều tụy vì ói mửa suốt đêm, còn trẻ nhỏ vẫn tỉnh táo mới là may phước. Con trai nhỏ của tôi đang ngủ trong vòng tay của mẹ. Sau một đêm dài vật vã với mưa bão hãi hùng, sáng nay khi bình minh ló dạng tôi vẫn nhớ là một ngày đặc biệt bắt đầu. Sinh nhật đầu tiên của con trai. Thôi nôi trên biển cả. Con gái xinh đẹp của tôi, 7 tuổi rồi vẫn còn nhõng nhẽo lắm, đang ngồi bó gối lặng yên. Thấy tôi xuống, mếu máo khóc, than chật chội quá và đòi lên buồng lái với bố. Có tiếng gọi lớn ở trên, tôi vội phóng người lên rồi bàng hoàng nhìn những vật dụng nổi trôi ngược dòng nuớc. Những chiếc sào tre, phao lưới, can nhựa đựng nước, chiếu cói, và cả quần áo đang dập dềnh theo sóng ngay trước mũi thuyền. Tôi chợt rùng mình khi nhớ lại khuôn mặt chàng thanh niên tóc dài, với nụ cười tự tin trên chiếc ghe vượt biên mới gặp sáng sớm hôm qua. Bão tố trong đêm đã nhận chìm chiếc ghe đó rồi. Không biết có thêm bao nhiêu người đã bỏ mạng trên đường đi tìm tự do. Tôi trở về buồng lái và cho thuyền chạy một vòng lớn để tìm xem có người nào may mắn còn sống sót thì vớt họ lên, nhưng chẳng gặp ai cả. Ghe chạy êm được khoảng vài tiếng thì gió lại gào thét. Tiếp theo là mưa trút xuống và sóng to nổi lên. Lần đầu tiên tôi biết thế nào là sóng lưỡi búa, tử thần của biển cả cuồng nộ. Từng ngọn, từng ngọn dâng cao nối theo nhau rất nhanh rồi chụp xuống với tốc độ kinh hãi. Chiếc thuyền nhỏ tội nghiệp của tôi vặn vẹo, chuyển mình nghe răng rắc, tưởng chừng có thể vỡ bất cứ lúc nào. Theo kinh nghiệm lý thuyết tôi đã học được, khi gặp thứ sóng hung hiểm này, nếu không kịp quay mũi ghe chạy ngược chiều sóng thì chỉ còn cách là đổi hướng chạy cho sóng đánh xéo mạn thuyền, may ra mới thoát được. Từ lúc đó cho đến chiều tối, tôi đã điều khiển con thuyền bằng với một sức chịu đựng không ngờ. Không còn biết phương hướng gì cả, chỉ chạy vòng vèo để lách sóng. Rất nhiều lần thuyền chạy vào bụng sóng rồi lại thoát ra, như đã được một bày tay vô hình dẫn dắt. Có lúc đuối sức quá tôi đã chực buông xuôi, nhưng nghĩ tới hai con và năm đứa cháu trên thuyền, tôi lại gắng gượng để giữ vững tay lái. Nỗi lo sợ trong tôi lớn dần khi màn đêm buông xuống. Nếu đêm nay trời còn giông bão thì chắc khó thoát hiểm. May mắn lại đến, trời tối thì bớt mưa gió, sóng cũng giảm xuống, không còn hung hiểm như ban chiều. Thuyền bớt lắc lư mạnh nhưng vẫn chồm lên chúi xuống như một con ngựa chúng. Tiến rất chậm nhưng mỗi giây phút trôi qua là hy vọng lại tăng lên vì càng đến gần bờ phía tây sóng gió sẽ giảm đi. Sức chịu đựng của tôi gần tới mức cuối cùng. Lúc bấy giờ, tôi lại phải chiến đấu với cơn buồn ngủ dữ dằn vì cơ thể đã quá mệt mỏi sau gần 48 tiếng vật lộn với sóng gió. Tôi không nhớ đã ngủ gục trên tay lái bao nhiêu lần, vì mỗi lần thiếp đi lại mau chóng choàng tỉnh vì thuyền giật mạnh liên tục. Tôi biết như thế vì có một chuyện lạ lùng đã xảy ra trong đêm đó. Có một lúc mơ màng, nửa mê nửa tỉnh tôi đã nghe tiếng đọc kinh vang lừng trên sóng. Tiếng kinh cầu lúc to lúc nhỏ đến từ nhiều phía. Tôi không nghe rõ lời kinh nhưng rõ ràng là kinh Phật vì có đệm theo tiếng mõ lốc cốc. Khi ba tiếng gõ lớn dội lên thì tôi thức dậy trong cơn hoảng hốt. Tiếng kinh im bặt, lại nghe tiếng gió gào kinh khiếp trong đêm tối mịt mùng. Tôi thấy lạnh xương sống vì bất chợt có một cảm giác thật kỳ lạ, chưa hề xảy ra trong đời. Chuyện lạ đang kể còn một phần nối tiếp rất kỳ bí. Trong số 18 người đi trên thuyền có hai người khách tham gia bất ngờ vào giờ chót. Chỉ một ngày trước khi đi, em vợ tôi dẫn hai người bạn thân đến nài nỉ xin đi theo và hứa sẽ ra sức giúp đỡ khi hải hành. Cả hai, Nghi và Du, đều là thiếu úy vừa ra khỏi trại tù cải tạo. Thấy hoàn cảnh đáng thương, tôi đã vui vẻ chấp nhận cho đi mà không đòi hỏi đóng góp gì cả. Để đền ơn, khi ra khơi hai chàng cựu sĩ quan này đã giúp tôi thật đắc lực. Sóng to và mưa bão làm cho thuyền ngập nước, máy bơm làm việc không xuể, nên Nghi phải tát nước suốt ngày đêm. Còn Du gần như lúc nào cũng ở bên tôi, tiếp tế cho tôi từng ly nước cho đến múi chanh để lấy sức cầm cự với phong ba. Trước giờ ra khơi, Nghi nói với tôi: “Em không biết anh đạo gì và có tin việc cúng kiếng không. Nếu anh cho phép, em sẽ mua ít nhang đèn và lễ vật để cúng cầu an cho chuyến đi”. Tôi đồng ý vì vẻ thành khẩn của Nghi, nhưng yêu cầu phải làm cho kín đáo. Sáng sớm ngày thứ ba biển bớt phẫn nộ, mưa tạnh hẳn nên thuyền rẽ sóng tiến nhanh hơn một chút. Nghi từ hầm máy trồi lên, tay cầm phích nước nhỏ đựng cà phê pha từ hôm trước, rót ra một ít vào cái nắp đưa cho tôi rồi nói: “Có chuyện này lạ lắm. Đêm qua, em tát nước dưới hầm máy, mệt quá nên ngủ gục mấy lần, mà lần nào cũng nghe tiếng cầu kinh vang vang trên mặt biển.” Tôi sững sờ nhìn Nghi. Anh chàng nhìn xuống nói nhỏ: “Bộ anh không tin hả?” Tôi nhìn thẳng vào mắt Nghi: “Tin. Tin chứ, vì đêm qua có lúc tôi thiếp đi cũng nghe tiếng kinh cầu vang vọng.” Nghi trợn mắt, miệng cười thật tươi, la lên: “Trời ơi! Thiệt hả? Như vậy là Trời Phật phù hộ. Anh em mình sẽ đến bến bờ bình yên, anh Hai à!” Thuyền trưởng “Anh Hai” nhìn chàng phụ tá đang cười cũng thấy vui lây.

Suốt một ngày thứ ba trời không mưa, chỉ còn mây mù và gió nhẹ. Đúng như dự đoán, càng tiến gần bờ biển Thái Lan thì biển bớt sóng. Tôi nhắm hướng trở lại và bình tĩnh cho thuyền chạy với tốc độ bình thường để dưỡng máy. Trong ngày, vì còn ở hải phận quốc tế nên đã gặp hai thương thuyền đang chạy ngược chiều. Nghi chạy ra mũi thuyền phất cây sào có gắn tấm vải trắng để báo hiệu, nhưng cả hai tàu đều làm ngơ chạy đi luôn. Du thay tôi, ôm tay lái vài lần để tôi nghỉ ngơi chốc lát lấy lại sức. Trên thuyền, ai cũng thấy khoẻ và hy vọng. Bầy trẻ của tôi được uống sữa nóng nên vui lắm. 5 giờ chiều hôm đó, thuyền chạy qua một hòn đảo tôi không biết tên, vì tấm hải đồ thấm nước tả tơi rã từng mảnh mất rồi. Thấy phong cảnh thật đẹp, đảo có hình dạng như chữ U, có một bãi biển êm ả ở giữa trông rất hữu tình. Mấy đứa em đề nghị cho thuyền vào bãi để nghỉ qua đêm vì thấy tôi đã quá vất vả trong hai ngày vừa qua. Tôi dụ dự, rồi cuối cùng quyết định không ghé vào đảo. Khi vào được đất liền, ngay hôm sau, tôi mới biết là chúng tôi lại có thêm một may mắn cực kỳ. Hòn đảo xinh đẹp ấy là đảo Kra, sào huyệt của bọn cướp biển Thái Lan. Đúng vào thời điểm tôi định ghé vào đảo chiều hôm đó, bọn dã man này đang nhốt 80 thuyền nhân xấu số, đi trên hai chiếc ghe, trong các hang động trên đảo, đàn ông bị đánh đập tàn nhẫn, đàn bà và những bé gái mới 9, 10 tuổi bị chúng thay nhau cưỡng hiếp ngày đêm.

Suốt đêm đó, tôi cho thuyền chạy dọc bờ biển để xuôi về hướng Nam với dự định sẽ đổ bộ vào sáng hôm sau. Thuyền đi gần bờ nên biển êm, gió nhẹ. Tôi vẫn cầm tay lái, nhưng thấy khoẻ khoắn vì không còn lo sợ nữa, chỉ mong cho trời mau sáng để vào bờ. Vầng dương đỏ ối từ từ trồi lên ở chân trời bên trái mạn thuyền. Chúng tôi đang đi qua một làng đánh cá ven biển. Cảnh vật hiện ra rất rõ vì thuyền chạy rất gần bờ. Dân làng chưa thức dậy nên không thấy bóng người, một dãy thuyền đánh cá nhỏ còn nằm gác mũi trên bờ cát. Tôi giảm tốc độ, vừa chạy thật chậm vừa quan sát tìm chỗ thích hợp để quay mũi đi vào. Hai sĩ quan “phụ tá” của tôi lên cả trên mui thuyền để bàn bạc. Chừng hai giờ sau, thuyền đến một làng chài khác. Trên bờ nhiều người chạy ra bãi cát giơ tay vẫy, xem có vẻ thân thiện. Nghi chỉ cho tôi thấy một chiếc xe thùng đậu gần đó, có hai người đứng kế bên với trang phục cảnh sát. Tôi nhìn kỹ và nhận ra đúng là chiếc xe Bronco, giống loại xe của cảnh sát VNCH. Tôi quyết định đổ bộ vì nghĩ là với sự hiện diện của cảnh sát, dân làng sẽ e dè không dám tấn công hoặc cướp bóc. Ngoài khơi có hải tặc, biết đâu lên bờ gặp địa tặc thì chạy đường nào. Mũi thuyền vừa chạm bãi cát, tôi thấy ba người đàn ông chạy ra. Người dẫn đầu tướng cao lớn, trông khá già, ở trần, bụng phệ quấn sà rông và hai thanh niên theo sau. Tôi dặn dò Nghi Du và mấy em vợ phải chăm sóc cho bảy đứa nhỏ, chờ tôi xuống trước xem sao. Lão già cười và ngoắc tay. Tôi nhảy xuống, chạy tới chắp tay xá và nói bằng tiếng Thái (đã chuẩn bị trước): “Chúng tôi là người Việt Nam. Xin Ngài cho lên bờ ở tạm chờ đi trại tị nạn.” Lão trả lời: “Được, được” rồi quay lại nhìn hai thanh niên. Lập tức, hai tên này xông tới, đấm đá tôi túi bụi. Bất ngờ quá, tôi chỉ cố đỡ gạt thôi chứ không dám đánh trả. Một tên nắm được tay tôi và giựt phăng chiếc đồng hồ Seiko tôi đang đeo. Dây đồng hồ kéo sước cổ tay tôi, máu chảy ròng ròng.Thấy vậy, Nghi và Du nhào đến tiếp cứu. Hai tên thổ phỉ bỏ chạy về phía đám đông đang đứng chờ, miệng vừa la hét tay vừa chỉ về phía chiếc thuyền của tôi. Biết là sắp bị cướp, tôi và Nghi Du chạy vội về thuyền đỡ hết mọi người xuống rồi cùng chạy về phía chiếc xe Bronco. Lão già và tên thiếu úy cảnh sát vẫn đứng yên, điềm nhiên tọa thị, nhìn cả trăm dân làng, đàn ông và đàn bà, đang bao quanh chiếc thuyền của tôi như đàn kiến bu một thỏi đường. Trên tay đứa nào cũng có dao hay búa, ra sức chặt đẽo để tìm vàng. Vậy là của cải tom góp cho chuyến vượt thoát dấu trên thuyền đã bị cướp sạch.

Bọn địa tặc làm thịt chiếc ghe thật nhanh. Nhìn “chiếc thuyền Công nghệ” của tôi, sau chốc lát chỉ còn khung gỗ, như con cá voi bị xẻ thịt còn trơ xương, tôi đau lòng quá. Chiếc thuyền này do tôi tự đóng, khung được ráp bằng bù loong thay vì đóng đinh, nên đã chịu nổi những cơn bão kinh hồn vừa qua. Vì chỉ được giấp phép chuyên chở lúa nên ghe không có sàn hầm gì cả. Nhìn chiếc ghe trống phốc không ai nghĩ là nó có thể vượt biển, nên đã tránh được sự theo dõi của công an. Không hề gì, Công nghệ đã có cách. Sau khi đo đạc rồi vẽ hình lòng thuyền trên mặt đất, các đà ngang và ván hầm được cắt thật chính xác, đánh số từng miếng theo thứ tự ráp nối. Phần công việc này được thực hiện trong một ngôi chùa nhỏ ở ngay thị xã Rạch Giá. Cây ván cắt xong dấu trong hậu liêu. Đêm 31-3-1980, số vật liệu này được chuyển xuống ghe, đang đậu sau một nhà máy xay lúa, gần một ngã ba sông thuyền bè đông đúc ngày đêm. Được hai cậu em phụ lực, tôi hoàn tất sàn ghe trong hai tiếng đồng hồ, để sẵn sàng “zulu” sáng hôm sau. Tôi chắc rằng Đức Phật từ bi tha lỗi cho tôi đã làm ồn ào chốn tôn nghiêm, thanh tịnh khi làm thợ mộc ngay trong chùa và phù hộ, độ trì cho “chiếc thuyền Công Nghệ” đến được bến bờ tự do. Tôi nói với tên sĩ quan cảnh sát: “Xin ông vui lòng giúp đỡ, đưa chúng tôi đến trại tị nạn Songkhla, tôi rất mang ơn.” Hắn nhún vai, lạnh lùng trả lời: “Trại Songkhla xa lắm. Tôi sẽ đưa các người về đồn cảnh sát với lệ phí mỗi đầu người một lượng vàng” Tôi thầm kêu khổ. Ở cái xứ đạo Phật hiền hoà này, ai ai gặp nhau cũng cúi đầu chắp tay chào, mà sao thường dân và cảnh sát đều là lũ cướp vậy. Phải thoát khỏi chỗ này bằng mọi giá. Không cần suy nghĩ và kiểm lại xem còn bao nhiêu tiền của mang trên người của cả đoàn, tôi đồng ý ngay. Mười tám người leo lên, ngồi bệt trên thùng xe. Chạy được chừng nửa giờ, đột nhiên xe chậm lại và quẹo vào một cánh rừng. Chúng tôi nhìn nhau ngơ ngác và lo sợ. Khi đã vào khá sâu, xe ngừng lại. Tên thiếu úy cảnh sát bước xuống, vẻ mặt trở nên lầm lì hung ác nói : “Trước khi về đồn cần phải khám xét vì lý do an ninh. Tất cả đàn ông xuống xe”. Đầu tiên, tên tài xế bắt từng người tháo dây thắt lưng da trao cho hắn. Bằng một động tác thật chuyên nghiệp, hắn bẻ tới bẻ lui và nắn bóp thật kỹ các dây này. Xong, hắn nhìn tên thiếu úy, gật đầu, cười. Tên gian ác này bước đến gần rồi đưa tay nắn cổ áo của Nghi. Thấy cộm, hắn cười thoả mãn và bắt chúng tôi cởi hết quần tây và áo sơ mi, gom lại bỏ hết vào ca bin xe. Đàn bà và trẻ con chỉ bị khám qua loa như nắn cổ áo và lai ống quần thôi. Thi hành nghiệp vụ xong, chiếc xe quay đầu trở ra đường cái, chạy một mạch về một thị trấn và dừng lại trước một đồn cảnh sát khá lớn. Nghi kề tai tôi nói nhỏ: “Mất sạch sẽ rồi, phải không anh Hai? Tới được chỗ này chắc thấy con đường sống rồi. Cái tờ giấy ra trại học tập của em may ép trong cổ áo mà tụi chó này cũng biết. Làm sao để chứng minh lý lịch của mình đây!”

Tên thiếu úy cảnh sát vào trong một lúc rồi trở ra với một sĩ quan khác. Tên này khoát tay kêu chúng tôi xuống xe, sắp hàng đi vào. Hắn dẫn tất cả đi thẳng ra phía sau, có một nhà xe trống, đang lố nhố chừng vài chục người của phe ta. Chỉ tay vào một góc nhà xe, tên cảnh sát mới bảo tôi: “Mấy người tạm nghỉ ở đây. Chút nữa tôi sẽ kêu anh lên văn phòng để khai báo. Nhớ là không được đi đâu hết.” Thôi cũng kể là may. Còn mạng sống ta còn tương lai. Sau mấy ngày gian nguy, cận kề nỗi chết, chúng tôi đến tuyến đầu tự do được chào đón kỹ như thế. Cánh đàn ông, từ “thuyền trưởng”, “thuyền phó” cho đến “thủy thủ” đều mát mẻ, vì trên người chỉ còn chiếc quần tiều và áo thun. Xứ Thái nóng lắm, mặc quần áo nhiều làm gì. Bà con tới trước ùa đến hỏi thăm. Một ông đứng tuổi bước tới, tươi cười thăm hỏi và bắt tay tôi. Ông tự giới thiệu tên là Can, giáo sư Lý Hóa ở Saigòn, cùng với bà vợ tên Dung, đang cầm trên tay một chiếc chiếu, trao cho vợ tôi nói: “Bà trải manh chiếu này cho các cháu ngồi nghỉ mệt. Chốc nữa đây họ sẽ cấp cho mọi người chiếu và võng”. Ngày đầu trên xứ lạ gặp đồng hương tốt bụng thật đáng quí. Ông Can kể là chiếc ghe chở gia đình ông đi có tất cả 32 người, mới vào đây đêm hôm qua, sau một chuyến đi te tua, bầm dập. Hồi sáng, họ đã cho ăn điểm tâm cháo với trứng vịt muối. Đang trò chuyện với ông Can thì có một cảnh sát trẻ xuống nhà xe gọi tôi đi theo. Anh này đưa tôi lên văn phòng trên lầu và mở cửa cho tôi. Bước vào trong đã thấy hai người chờ, tên thiếu úy hồi sáng gặp ở làng chài lưới và sĩ quan trưởng đồn đã ra đón chúng tôi hồi nãy. Vừa thấy tôi, trưởng đồn đang ngồi trên chiếc ghế có lưng dựa cao và tay vịn đứng ngay dậy, chồm người qua bàn làm việc, vui vẻ đưa tay ra bắt và mời tôi ngồi. Tên ăn cướp mặc sắc phục thiếu úy cảnh sát đang ngồi trên chiếc ghế thứ hai trước bàn cũng đứng dậy chào. Gương mặt của hắn thấy bớt phần hung ác và đang cố làm ra vẻ thân thiện. Tên trưởng đồn đẩy một tờ giấy đã đánh máy sẵn bằng tiếng Thái đến trước mặt tôi rồi vào đề ngay, bằng tiếng Anh rất dễ nghe: “18 người đi trên chiếc ghe mang số KG.... của ông phải ở lại đồn này ít ngày để làm hồ sơ cá nhân. Khi xong, chúng tôi sẽ đưa tất cả vào trại Songkhla. Bây giờ, ông phải ký tờ giấy này.” Rất bình tĩnh, tôi trả lời ngay: “Tôi không đọc được chữ Thái. Các ông viết cái gì trong này tôi không biết thì làm sao ký được.” Tên thiếu úy lên giọng hằn học : “Ký đi, ông bạn. Rồi sẽ được đi sớm.” Tên trưởng đồn cướp lời, giọng mềm mỏng hơn: “Phải nói cho rõ hơn là ông ký giấy này thì sẽ dễ cho chúng tôi sắp xếp cho vào trại tị nạn sớm. Ông không đọc được thì để tôi dịch ra tiếng Anh cho ông nghe.” Nói rồi, hắn cầm cây bút chì vừa rà theo các hàng chữ lăng quăng vừa dịch sang tiếng Anh. Theo bản văn, tôi chỉ cần ký tên xác nhận hai điều. Thứ nhất là khi đổ bộ lên làng chài.... (có ghi địa danh, bây giờ tôi đã quên) hồi 8 giờ sáng ngày 4-4-1980, người trên thuyền không có ai bị đánh đập, hành hạ và không bị cướp một món vật nào cả. Thứ hai là tôi tự nguyện tặng chiếc ghe mang số KG.... cho vương quốc Thái. Đơn giản thế thôi, không có đòi hỏi gì khác. Không ký thì sẽ khó đấy. Nếu bị giữ ở đây lâu thì liệu tôi có thể kiện tụi nó không. Phủ bênh phủ, huyện bênh huyện, rồi ai sẽ xử cho. Tôi bị đặt vào tình huống phải tự ý giúp cho bọn đạo tặc chạy tội. Nên đi khỏi chỗ này càng sớm càng tốt, nhưng có chắc là tên trưởng đồn đã dịch đúng nội dung văn bản này không. Tôi chợt nghĩ ra một giải pháp có thể tự bảo vệ mình. Nhìn thẳng vào mắt tên trưởng đồn cảnh sát, tôi nói chậm rãi và rõ từng tiếng: “Tôi sẽ ký tờ giấy này sau khi ghi thêm bằng tiếng Anh là tôi không đọc được chữ Thái nhưng đã được vị trưởng đồn cảnh sát dịch hai điều khoản trong văn bản sang tiếng Anh như sau: điều thứ nhất nói........, điều thứ hai nói........ đúng y như nội dung ông vừa dịch. Ông nghĩ sao?” Nghe xong, hắn phá lên cười, đầu gật gù: “Đề nghị hay lắm. Thôi cứ làm như vậy đi.” Tôi mượn cây viết mực, cặm cụi viết rồi ký tên. Nhận lại tờ giấy, đọc những gì tôi đã viết, tên trưởng đồn cười mãn nguyện, đứng lên tiễn tôi ra cửa, nói theo: “Tôi đã liên lạc với Cao Uỷ tị nạn Liên hiệp quốc rồi. Họ sẽ lo ăn uống mỗi ngày. Ngày mai, nhờ ông giúp mọi người làm hồ sơ cho xong sớm.”

Tôi xuống tới nhà xe đúng lúc một xe ba bánh chở thức ăn buổi trưa tới để phân phát cho tất cả 50 người của hai chiếc ghe. Bất kể già trẻ lớn bé, mỗi người nhận được một hộp cơm và một chai nước. Được vậy cũng là sang lắm rồi. Cơm bình dân từ nhà hàng Tàu. Tôi đã có một bữa ăn đầu tiên xa xứ thật ngon miệng vì từ sáng cho đến giờ đó không ăn uống gì cả, lại thêm đầu óc đã bớt căng thẳng. Nhà kho của đồn cảnh sát cho mượn 9 chiếc chiếu và 7 cái võng. Nhìn cái nhà xe rộng với chiếu trải khắp nơi và võng giăng tứ tung theo các cột nhà giống như một trạm cứu tế thiên tai hơn là chỗ tạm giam người nhập cư bất hợp pháp. Cơm chiều xong thì trời đã tối. Tôi đang nằm mơ màng trên một chiếc võng thì có người gõ gõ trên vai. Tôi ngước nhìn lên, thấy tên thiếu úy cảnh sát trong bộ đồ dân sự. Hắn ra dấu bảo tôi đứng dậy đi theo. Khi ra đến một chỗ vắng, hắn móc trong túi ra mấy tờ tiền đô Mỹ, chìa cho tôi xem, cười bảo: “Tiền của ông tôi còn giữ đây. Ông có muốn lấy lại không ?” Nhìn khuôn mặt đang cười đểu giả của hắn, tôi muốn điên tiết lên. Muốn cho xong, tôi đã nhường nhịn quá sức. Tưởng yên rồi, tới giờ này tụi nó lại giở trò gì đây. Tôi dư biết, tiền đã vào tay thổ phỉ rồi dễ gì chúng trả lại. Có thể, một bẫy rập khác đang giương ra. Nghĩ đến hoàn cảnh của mình, hiện đang nằm trong tay bọn bất lương, ráng chịu đựng thêm ít ngày nữa thôi là đi khỏi nơi đây, vào được trại tị nạn rồi là yên. Tôi nén cơn tức giận nói: “Tiền và vàng của tôi xem như đã mất rồi. Cứ giữ để xài đi, ông bạn. Đừng quên lời hứa giải quyết cho chúng tôi đi sớm.” Có lẽ hắn cũng ngạc nhiên vì sự dễ dãi của tôi nên chỉ nói OK rồi bước nhanh ra cổng. Việc làm hồ sơ cá nhân chỉ mất một ngày là xong, nhưng 50 thuyền nhân chúng tôi bị giữ lại đến 5 ngày. Lại một chuyện lạ khác xảy ra, cũng bất ngờ nhưng vui vẻ. Sáng ngày thứ hai, trước giờ phát cháo điểm tâm, tên thiếu úy cảnh sát đem đến cho con cháu của tôi bảy gói đủ thứ thức ăn, nào là xôi, bánh mì, bánh bao ... làm cho tụi nhóc khoái quá. Những người đồng cảnh trầm trồ khen ngợi lòng tốt của viên chức cảnh sát. Tôi dặn bà xã và các em cứ thản nhiên để các cháu hưởng “phước”, đừng kể lể chuyện cướp giật không có lợi gì cả. Liên tiếp trong bốn ngày kế đó, con cháu tôi được ăn sáng ngon miệng lại thêm kẹo bánh hay cà rem mỗi chiều. Những lần sau do người khác mang tới.

Mười giờ sáng ngày 9-4-1980 một chiếc xe vận tải lớn có thùng kín phía sau chở hết 50 thuyền nhân đi đến trại tị nạn Songkhla. Có một thượng sĩ cảnh sát của đồn mang hồ sơ đi theo xe. Ông này là người đã phụ trách việc lập hồ sơ cá nhân cho chúng tôi. Vợ và hai đứa con của tôi được cho lên ngồi ở buồng lái với tài xế và ông. 47 người còn lại chất lên thùng xe. Vì không có băng ghế nên “hành khách” phải ngồi bẹp xuống. Sàn xe có vẻ đã được chùi rửa rồi nhưng vẫn còn phảng phất mùi phân súc vật. Trước khi xe chuyển bánh, vợ ông thượng sĩ chạy đến đưa cho con tôi một gói bánh thật to. Xe chạy cà rịch cà tang, mất hơn hai tiếng mới tới nơi. Trại Songkhla nằm sát bờ biển. Ngay trước cổng trại, bên trái là một trạm cảnh sát, bên phải là một dãy sạp gỗ của chợ nhỏ mở bán cho dân tị nạn mỗi buổi sáng. Con đường nhựa từ ngoài thị trấn, song song với bờ biển, chạy thẳng vào luôn suốt chiều dài trại. Đây là con lộ duy nhất của trại được đồng bào đặt tên là “Đại lộ bình minh”. Cổng trại có hai cánh cổng bằng khung sắt, kéo dây kẽm gai. Sát hàng rào phía trong trại, có dựng một bảng thật lớn trên hai chân thật cao, đề tên trại tị nạn Songkhla bằng tiếng Anh với hình một chiếc thuyền nghiêng một bên, phía dưới là hai bàn tay đang đỡ con thuyền, dưới cùng là hàng chữ Latin có nghĩa “Lắc mà không chìm”. Đã 31 năm qua, đến giờ này tôi vẫn còn nhớ như in tấm bảng này. Nó đã mang lại cho tôi một nỗi xúc động vì cái ấn tượng mang ý nghĩa cứu rỗi bằng tình thương nhân loại.

Chúng tôi lục tục xuống xe giữa trời nắng nóng như thiêu của buổi trưa đứng gió. Một thanh niên, đại diện Ban Điều hành trại, ra tiếp đón đồng bào mới tới. Sau lời chào mừng ngắn gọn, anh yêu cầu chúng tôi sắp hàng, đàn ông một bên, phụ nữ và trẻ em một bên. Quay sang phía phái yếu, anh thúc dục: “Xin quí bà nhanh nhanh để đi trước, cho các cháu bé vào sớm, trời nắng quá.” Đồng bào ta trong trại bất chấp trời nắng cháy da, chạy ra đứng ở hàng rào vẫy tay cười nói ồn ào như đang chờ đón thân nhân. Đứng cặp với tôi trong hàng chờ vào trại, ông Can quay sang hỏi: “Bà con trong ấy đang chỉ chỏ và cười cái gì thế, hả ông?” Nghe hỏi, tôi chợt tỉnh ngộ, bèn trả lời: “Ông nhìn lại anh em mình đi. Mấy chục mạng toàn “chơi” xà lỏn với áo thun, không cười sao được.” Ông thầy giáo nhìn xuống đôi dép lê có buộc dây nối cái quai đứt mà tôi đang mang, xoay người nhìn anh em trong hàng, rồi ngước lên trời cười hà hà: “Ừ nhỉ. Xuất ngoại mà mặc đồng phục như thế này, bảnh thật! ” Tôi tự nhủ, bây giờ ăn mặc thế nào cũng được, cũng vui, vì mình đang đứng trước cổng dẫn vào thế giới tự do. Vào đầu thập niên 80, phong trào khủng bố trên thế giới chưa rộ lên nhưng cảnh sát hoàng gia Thái đã thi hành nhiệm vụ bảo an một cách tích cực và cần mẫn hết sức. Dân tị nạn cộng sản Việt Nam đặt chân lên xứ Thái đều bị lột quần áo để kiểm tra an ninh. May mà chúng còn chút điểm lương tâm nên đàn bà con gái được chừa ra. Vì thế, đàn ông con trai chỉ trần xì có quần đùi, áo thun hoặc ở trần nhập trại.

Trại tị nạn Songkhla đây rồi. Người đông như kiến cỏ. Lúc chúng tôi đến, trại đã có hơn 10 ngàn người, ở chen chúc trên một diện tích không tới một cây số vuông. Có 33 dãy nhà, mỗi nhà dài chừng 50 thước, vừa gỗ vừa lá, không đủ chứa nên rất nhiều người phải tá túc dưới bóng của hàng cây dương ngoài bờ biển. Phụ nữ và trẻ con được đưa đến những gốc cây còn trống, đàn ông lên văn phòng làm thủ tục nhập trại. Vào tới đây đã vui rồi, gặp được thân nhân bạn bè còn “đã” hơn. Tay bắt mặt mừng, cười hả hê, chuyện nổ như bắp rang. Phe ta, Công nghệ và Phú Thọ đã có mặt khá đông. Gia đình tôi lại gặp may mắn một lần nữa. Được một người quen nhường chỗ, nên vợ tôi và 7 đứa nhỏ vào ở trong nhà lá sau vài ngày “bụi đời”. Tôi yên tâm một phần nên lân la trên văn phòng trại để tìm việc làm cho khuây khoả. Giúp cho đồng hương đồng cảnh ngộ thì cũng như giúp cho chính mình và những người thân. Với suy nghĩ đơn giản đó, tôi lao vào công việc thiện nguyện và thật sự bị cuốn hút vào nhu cầu công tác. Suốt trong thời gian ở trại, tôi cùng với nhiều anh chị em khác làm việc bất kể giờ giấc; có đêm chỉ chợp mắt được bốn tiếng đồng hồ. Khoảng thời gian giúp việc cho Ban Điều hành trại tị nạn tuy ngắn ngủi nhưng thật đáng giá và có ý nghĩa nhất trong ĐỜI ĐÁ VÀNG của tôi. Tôi đã thấy được ở đây lòng bao dung của con người đã góp phần cứu khổ, cứu nạn cho những phận đời bất hạnh. Cái giá phải trả cho sự tự do thật to lớn vô cùng, và ý chí vượt thoát tù đày, áp bức của đồng bào tôi cao hơn núi. Trại tị nạn quá đông đúc, là một xã hội thu nhỏ đầy hỉ nộ ái ố với quá nhiều phiền não. Đồng bào đã nhập trại xem như tạm yên phần mình, nhưng vẫn ngày đêm trông ngóng tin tức thân nhân đi sau. Bắt đầu từ năm 1980, nạn hải tặc cướp của, hãm hiếp, giết người lên đến cao điểm, nên tin vào từ biển khơi hung hiểm thường là tin chết chóc và bi thảm. Một đêm tháng 5, vào 2 giờ sáng, tôi còn ở văn phòng cùng với anh chị em chuẩn bị hồ sơ cho đợt phỏng vấn lớn của phái đoàn Hoa Kỳ để giải tỏa bớt nhân số quá tải của trại. Có tin từ trạm cảnh sát Thái ngoài cổng trại đưa vào, yêu cầu tiếp nhận một chiếc ghe chở người tị nạn đã đến, đang ở ngoài cầu tàu. Đây là một trường hợp hiếm có, vì trại Songkhla dành cho người từ các nơi chở đến bằng đường bộ. Tôi và nhân viên trật tự đang ca trực ra ngay cầu tàu. Một chiếc ghe nhỏ đang cặp bến, vắng lặng, chỉ thấy một cảnh sát đứng trên sàn ghe. Tôi nhảy xuống trước, hỏi anh cảnh sát về người đi trên tàu. Anh ta không nói gì, ra dấu chỉ xuống hầm. Linh tính cho biết có chuyện chẳng lành, tôi chờ anh trưởng ban trật tự xuống rồi mở nắp hầm rọi đèn pin xuống xem. Nghe tiếng con nít khóc rộ lên, tôi thò đầu xuống chỉ thấy toàn trẻ nhỏ chừng chục đứa đang khóc, mắt mở to kinh hãi. Không có một người lớn nào trên ghe cả. Trước khi đưa các cháu lên, tôi đã báo cáo sự việc cho cao ủy, trưởng trại, và đánh thức bác sĩ trưởng ban y tế dậy. 11 đứa bé bất hạnh này, cháu lớn nhất chừng 7 tuổi, đã được đưa lên bệnh xá chăm sóc. Khi tỉnh táo lại, cháu kể là tất cả đàn ông trên ghe đều bị hải tặc giết chết, ném xác xuống biển, còn đàn bà con gái bị chúng bắt đi theo, chỉ chừa lại con nít và thả cho ghe trôi luôn. Lúc đó, nhìn cháu, tôi lại liên tưởng đến con gái tôi, cùng trạc tuổi và vóc dáng. Nếu biển yên gió lặng, có thể ghe của tôi cũng gặp hải tặc. Nếu bọn thú mang lốt người này chặt hai cánh tay rồi thả tôi xuống biển, như đã làm với rất nhiều đồng hương của tôi, khi bỏ đi bắt cóc luôn vợ tôi; thì không biết con cháu tôi có sống sót để vào được đất liền không nữa. Nghĩ đến đó, tôi rùng mình không dám nghĩ tiếp. Nhớ lại và kể câu chuyện thương tâm này, vì mới đây tôi có xem một DVD ca nhạc thấy giới thiệu một phụ nữ lên sân khấu kể về chuyến vượt biên hãi hùng của cô. Thì ra cô này chính là đứa bé gái tội nghiệp mà tôi đã đưa lên bờ từ chiếc ghe xấu số, 31 năm về trước ở trại Songkhla.

Hơn chục ngàn người sống chen chúc trong trại gồm đủ mọi thành phần xã hội. Cao nhất, mà người ta biết được, là một Thứ trưởng của chính quyền và một Đại tá của quân lực VNCH. Thấp nhất, có lẽ là những thanh niên tình cờ đi thoát trong một dịp may hay xui rủi nào đó, nhập trại không tiền bạc, không chữ nghĩa, tối ngày lang thang ngơ ngác. Về tuổi tác, người ta thấy rất nhiều cụ già đi đứng không vững, không còn minh mẫn, sáng sáng ngồi trước lều thẫn thờ nhìn ông đi qua bà đi lại và nhiều trẻ em mất cha mẹ trên đường vượt biển, có đứa mới được vài tháng tuổi, đang được nhiều thiếu nữ giàu từ tâm chăm sóc trong nhà cô nhi của trại. Lúc tôi ở trại, Cao ủy Tị nạn LHQ chi cho mỗi đầu người, mỗi ngày 5 đô la Mỹ về khoản ăn uống, nhưng bọn nhà thầu cung cấp thực phẩm Thái lan đã ăn chận một cách trắng trợn và vô nhân đạo. Những người không có tiền phải cố nuốt hàng bữa thức ăn tự nấu bằng gạo xấu cùng một dúm rau héo và mấy con cá ươn. Trong khi đó, người giàu ăn tiêu cực kỳ xa xỉ. Như vợ chồng một người Hoa ở kế bên gia đình tôi. Họ đã ở trại Songkhla hơn 4 năm, có sẵn hai con, bà vợ sinh thêm hai đứa nữa ở trong trại. Trong khoản bề ngang sạp ngủ được phân chia họ cũng kê cái bàn với bếp lò như mọi người, nhưng hàng ngày thuê đầu bếp đến nấu nướng. Mỗi bữa, mùi thức ăn chiên xào thơm phức toả ra, cứ cách ngày là xối mỡ một con gà, làm nhức mũi (và nhói lòng) người chung quanh. Thiếu tiền sinh trộm cướp, thiếu tình thì lang chạ, gạt gẫm phụ nữ, đàn bà có chồng cũng không tha. Ban trật tự điên đầu vì những vụ kiện cáo xảy ra hàng ngày. Bên cạnh những căn bệnh tự nhiên do thời khí, có một thứ bệnh không gây chết chóc nhưng dễ gây loạn trong cảnh sống xô bồ, phức tạp. Đó là bệnh “nổ”, tự phát và lây lan rất nhanh. Cứ đến các quán cà phê trong trại, giờ nào cũng gặp những “bệnh nhân” này. Trời nóng muốn chết mà ăn mặc bảnh bao như bộ trưởng, khoe khoang chức tước và thành tích (tưởng tượng) để lấy trớn công kích và thoá mạ người khác. Khổ một nỗi, đối tượng thường là nhân viên, hay cả Ban Điều hành trại. Thật là “Trải qua một cuộc bể dâu. Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Nếu có ai sai khiến được mấy ông “tướng phường tuồng” này đem tài hùng biện và miệng lưỡi ra chửi lộn với bọn nhà thầu thực phẩm hay cảnh sát Thái lan thì “đại phúc” cho bà con biết mấy. Vào đến đây rồi vẫn còn bị uy hiếp. Vào một đêm tháng 4, đồng bào trong trại đang ngủ say bị đánh thức dậy để cho cảnh sát Thái khám xét tư trang. Lý do đưa ra là truy tầm hàng buôn lậu. Quí vị có tin được cái chuyện lạ lùng và quái ác này không. Họ gom tất cả lại, từ cái đồng hồ đeo tay cho đến những máy hát bán ngay ở chợ trước cổng trại, nhìn sơ qua rồi tuyên bố món vật nào không sản xuất tại Thái Lan đều là hàng lậu, bị tịch thu hết. Cái màn ăn cướp công khai, trắng trợn, xem thường công pháp quốc tế này đã làm cho khổ thêm cho người khốn khó. Sáng hôm sau, nghe radio mới biết là cảnh sát Thái “trả thù” dân tị nạn vì đêm qua bộ đội Việt cộng hành quân qua lãnh thổ Thái Lan để truy đuổi tàn quân Khmer đỏ. Trại có gởi văn thư phản kháng nhưng không đi đến đâu.
Giúp cho đồng bào nhanh chóng được đi định cư ở một quốc gia đệ tam là một công việc hàng đầu. Ban Quản trị hoàn thành trách vụ ấy không mấy khó. Còn việc giữ cho bà con sống yên, sống khoẻ mạnh chờ ngày lên đường thật không dễ. Ăn uống thiếu dinh dưỡng, chỉ cần thiếu nước, mất vệ sinh để bệnh dịch bùng ra thì sẽ thiệt hại không ít về nhân mạng. “Gặp nguy khó mới rõ người hiền”. Ông bà xưa thường nói như vậy. May mắn thay, ở cái trại giam người có đủ thứ đe dọa sự an nguy của thuyền nhân này, “người hiền” không thiếu. Họ là những người thiện nguyện, ngày đêm làm việc hết sức mình, trong âm thầm, để giúp cho đồng hương một cách thiết thực và hiệu quả. Trong số người này có khá đông kỹ sư Phú Thọ, Công Nghệ chiếm đa số. Có thêm điều này tôi phải kể, không sợ có người cho là khoe khoang, vì đó là một sự thực ai có mặt ở trại Songkhla vào thời điểm đó đều biết. Dân Công Nghệ của tôi không ngại dấn thân và đã làm được, làm tốt đủ thứ công việc. Bà con thiếu nước nấu nướng tắm giặt vì bơm giếng hư, Công Nghệ tới ngay. Người mới nhập trại ùn ùn, gốc cây dương nào cũng căng bạt nylon bốn phía, Công Nghệ xung phong cất thêm lán trại bằng cây lá xin được. Những việc “kỹ thuật” có dính chút cơ khí này KS Công Nghệ gánh vác đã đành. Các phần hành khác, từ công việc thư lại sạch sẽ như thông dịch, phiên dịch văn thư tài liệu, sắp xếp hồ sơ ở văn phòng, dạy Anh văn ...... cho đến những việc nặng nhọc, không thơm tho như khai mương thoát thủy, làm nhà vệ sinh ...... cũng có mặt Công Nghệ. Đèn đóm của trại cần duy trì ngày đêm vì nhu cầu của văn phòng, nhà ở và hàng rào an ninh. Anh LVX, KS Điện làm trưởng ban. Khi anh lên đường đi định cư thì có một KS Công Nghệ tình nguyện thay thế ngay. Đó là huynh trưởng ĐHH, CN5. Anh ĐHH cũng vượt biên từ Rạch Giá. Giữa tháng 3-1980, khi chuẩn bị xong, anh từ Saigòn xuống tìm tôi với nhã ý cho tôi đi theo. Chuyện này tôi đã kể trong một bài trước. À, suýt nữa là quên, trưởng trại tị nạn Songkhla cũng là KS Công Nghệ luôn, đại huynh NHT, CN3, cựu thứ trưởng bộ Kinh tế VNCH.

Sau những may mắn kỳ diệu không ngờ, gia đình tôi đã có mặt trong trại này, chỉ còn chờ ngày đi định cư. Trừ những người có thân nhân đang sống ở một quốc gia khác, số còn lại hầu hết xin đi Hoa Kỳ. Tôi cũng ở trong trường hợp này. Trong những ngày đầu ly xứ, điều an ủi nhất là nhận được thư từ thăm hỏi và chi viện của bạn bè đã đi trước. Cảm động nhất là khi mở thư ra thấy một ngân phiếu kèm theo. “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Các anh, các bạn đã cho tôi nhiều “miếng”. Bị cướp cạn, nhập trại không một xu dính túi, một nách bảy đứa trẻ, nên sự giúp đỡ vô cùng quí báu này tôi không bao giờ quên. Được tin tôi đến được Songkhla, BS PNT, một người bạn thân đang làm Trưởng trại tị nạn Lamsing cũng ở miền Nam Thái Lan, gởi ngay cho 300 Baht và ba cái áo thun in huy hiệu các trường đại học HK rất đẹp. Nhờ vậy, khi lên làm việc trên văn phòng trại, tôi trông “học thức” hơn một chút với áo thun có hình “Michigan University”, thay cho cái áo sọc nâu ngắn tay xin được ở chùa, cổ áo rách te tua vợ tôi đã mượn kim chỉ may lật lại. Bạn đồng khoá NHT, CN10, ở Canada, cũng giúp cho hai lần. Người liên lạc nhiều nhất là huynh trưởng VKS, CN5, ở Sydney. Cứ đều đều, khoảng hai tuần, tôi lại nhận được thư của anh, thư nào cũng thật dài, thật cảm động. Anh đã gởi cho tiền nhiều lần trong thời gian tôi ở trại. Tôi đã quyết định xin đi Úc vì muốn được sống gần anh. Gia đình tôi đã định cư ở Úc, nhưng xa anh đến hơn 5 giờ bay. Ước muốn đến sinh sống ở Sydney của tôi không bao giờ đạt được vì những cản trở khó vượt qua. Năm 1985, cả nhà tôi qua thăm Sydney. Anh chị VKS không cho ở khách sạn, mời về ở nhà cho vui. Hơn một tuần ở đây, mỗi ngày được một Công Nghệ chiêu đãi ở nhà riêng, tất cả anh em đồng môn đều tham dự thật vui. Trong bữa tiệc hội ngộ đầu tiên ở tư gia của anh chị VKS, đồng môn TDT, CN10, cùng bà xã đến sớm nhất. Vừa vào đến phòng khách là hắn nhào tới tay vừa thụi tôi mấy cái đau điếng, miệng vừa la lớn: “Mẹ .... Mẹ .... sao kêu qua đây ở với anh em cho vui mà hổng chịu qua. Sao vậy mậy ?!” Tới giờ này tôi vẫn chưa quên buổi tái ngộ thật cảm động và mấy cú đấm “thân tình” của “Bạn vàng”, biệt danh của TDT khi còn học dưới mái trường Công Nghệ thân yêu. TVG, CN13, một đồng môn đa tài, vừa làm kỹ sư vừa làm thêm nghề tay trái là Tổng thư ký cho tờ nhật báo đầu tiên của người Việt tị nạn ở Úc, cứ theo nài nỉ: “Qua đây ở anh ơi. Việc làm bên này dễ kiếm. Anh khỏi lo nhà cửa. Em mua nhà rồi, anh chị cứ dọn vào ở thoải mái, thủng thẳng mua nhà riêng rồi trả lại. Em còn độc thân ở đâu cũng được.” Sáng sớm ngày thứ hai, hai anh em đang uống cà phê thì có tiếng gõ cửa. Tôi cùng anh VKS bước ra, thấy anh chị PVH, CN15, lái hai chiếc xe đến, đang chờ ở cửa. PVH đưa cho tôi xâu chìa khoá và chỉ vào một chiếc xe rất mới, cười nói: “Em đem chiếc xe lại cho anh chị đi đây đó. Ở bên này chạy xe qua cầu phải trả tiền. Bạc cắc em đã để sẵn trong hộc. Bây giờ tụi em phải đi. Hẹn chiều nay gặp lại”. Làm sao tôi quên được những tình cảm rất “công nghệ” mà anh em đã dành cho tôi.

Một lần nữa, qua bài viết kể chuyện đời trôi nổi này, xin tri ân những bè bạn, nhất là đồng môn Công Nghệ đã giúp tôi trong cơn hoạn nạn. Chân tình của các anh và các bạn đã làm cho ĐỜI ĐÁ VÀNG của tôi đẹp thêm và tràn đầy hạnh phúc.

Tây Úc, Tết Con Mèo 2011.
VĨNH NGỘ CN10
Last edited by uncle_vinh on 20 May 12, Sun, 8:05 am, edited 2 times in total.
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Tháng Tư Đen và Đời Đá Vàng

Post by uncle_vinh »

Đời Đá Vàng

dacung


Những ngày cuối tháng Tư 1975, tâm trí ngổn ngang, không biết nên đi hay nên ở!

Mấy ngày thứ Ba vẫn đến trường nhưng không vào lớp vì cả thầy lẫn trò đều cùng tâm trạng hoang mang; những ngày khác trong tuần vẫn lên nhà máy giấy CogiMeko đi làm job thứ 2. Từ nhà máy nhìn ra xa lộ Biên Hòa thấy giòng người di tản hướng về Sài Gòn càng thêm rối trí, chứng tỏ dân thường cũng “ích kỷ” sợ Việt Cộng vô cùng chứ không chỉ có một mình tôi, như có lần ở quân trường Quang Trung trong giờ ra chơi, bàn về hòa bình thống nhất đang đến với một anh Trung Úy Huấn Luyện Viên, tôi nói “hòa bình kiểu nầy chắc là sẽ chết chóc, đổ máu nhiều!” Anh Trung Úy người Huế trả lời “Phải thống nhất thôi, sợ như vậy là ích kỷ!”


Hòa Bình!

Rôi hòa bình đã đến, mặc dầu đến không như ý của mình, không như ý của đa số người dân miền Nam. Mọi người lo sợ bị trả thù. Những chuyên viên khoa học kỹ thuật và nhất là nhân viên giảng huấn như chúng tôi ngây thơ tự trấn an “mình chỉ đi dạy, chắc không có tội!” Đâu ngờ sau này “nhờ ơn cách mạng“ chúng tôi mới biết là mình đã tiếp tay Mỹ-”Ngụy” đầu độc thanh niên nam nữ xây dựng một miền Nam “phồn vinh giả tạo”, điên cuồng chống phá “cách mạng”. Ngay cả y tá cũng mắc tội vì đã đỡ đẻ cho “Ngụy” quân và “Ngụy” quyền! (1)

Khoảng 1 tháng sau thì quân nhân công chức miền Nam được lịnh chuẩn bị đi “học tập cải tạo”.

Đợt đầu là từ Hạ Sĩ Quan trở xuống học tập tại làng xóm 3 buổi tối. Ban ngày được tự do làm ăn. Sau đó đến đợt thứ 2, từ Thiếu Tá trở lên được gọi “chuẩn bị lương thực 1 tháng” để đi “học tập”. Một tuần sau, trong khi Tá và Tướng còn “học tập” thì đến phiên cấp Úy được gọi “chuẩn bị lương thực 10 ngày” để đi học.

Thật là cực kỳ logic. Thời gian “học tập” rất tương xứng với cấp bậc. Lịch trình cũng được sắp xếp có chủ ý: Binh Sĩ và Hạ Sĩ Quan học tập tại chỗ còn cấp Tá đi 1 tháng chưa về thì làm sao cấp Úy có thể nghi ngờ thiện chí của “cách mệnh” để phải trốn “học tập”. Nhờ cái logic “tự nhiên” đó mà cách mệnh đã không tốn một viên đạn mà vẫn lùa được hằng trăm ngàn cựu chiến binh miền Nam vào rọ một cách dễ dàng.

Lúc các vị Tướng, Tá đang tập trung 3 ngày tại Trung Tâm KT Phú Thọ, chúng tôi dọ hỏi chú Ba Mân “mấy ổng làm gì trong thời gian đó?” Chú trả lời “Không thấy làm gì hết. Ngày 3 bữa có nhà hàng Đồng Khánh (một nhà hàng Tàu nổi tiếng trước 1975) đến phục vụ. Sáng ăn bánh mì hột gà ốp la, trưa ăn cơm chiên, chiều đến còn có beef steak, cà phê cũng không thiếu!”

Đến phiên cấp Úy được gọi trình diện, riêng sĩ quan biệt phái phải trình diện tại trường Nguyễn Bá Tòng. Vì phải hỏi Ban Quân Quản trường KSCN cho rõ là chúng tôi sẽ học tập tại trường hay phải “đi” học tập cho nên tôi đến trễ và không được nhận. Đành phải trở về nhà, vừa ăn trưa vừa lo nghĩ “đất nước hòa bình rồi. Thôi kệ, đi 10 ngày rồi về làm ăn như mọi người!” Thế là đến trường Petrus Ký xin vô, được mấy anh bộ đội mở cửa, mừng quá ... vô ngay! Không ngờ bữa ăn trưa đó là bữa cuối với vợ đang mang thai sắp sanh. Không phải là bữa ăn để từ giã và hẹn tái ngộ vào10 ngày sau mà là gần 3 năm sau đó; nhưng vẫn còn may hơn nhiều người tù cải tạo khác, phải đến 10 năm sau, thậm chí có người không bao giờ trở về nhà. Không biết anh chàng Trung Úy Huấn Luyện Viên người Huế hôm đó có được bữa cơm trưa với gia đình như tôi hay đã vội đi trình diện cho đúng giờ, hay là chàng đã được thăng cấp “Thượng Úy”? (2)

Trong 2, 3 ngày ở trường Petrus Ký, chúng tôi được một nhà hàng Tàu đến lo cơm nước ngày 3 bữa. Không được Đồng Khánh thì cũng đúng vì mình chỉ là cấp ... Úy thôi mà!

Một ngày sau đó, vào nửa đêm, chúng tôi được đưa lên xe Motolova, che bít bùng và đưa đi “học tập”. Bị nhét như cá hộp làm ngộp thở, có người bị xỉu. Đoàn xe chạy gần như liên tục. Xe ngừng 2, 3 lần nhưng không ai được ra khỏi xe cho nên có người đái cả trên xe. Đến sáng thì đổ vào một căn cứ quân đội cũ, mọi người tự tìm lấy chỗ ngồi trong hangar mái tôn trốn nắng. Có anh nhận ra được đó là căn cứ Công Binh ở Trảng Lớn, Tây Ninh,


Học Tập Cải Tạo


Chờ đến khoảng 1 giờ trưa, không thấy nói gì đến cơm nước, anh em cứ ngóng về cổng đợi nhà hàng đem thức ăn đến. Quá trưa vẫn không thấy xe nhà hàng đâu cả thì được lịnh cử người đi lãnh thực phẩm. Khi toán người trở về với gạo, muối, và mấy cái chảo gang khổng lồ thì mọi người ngạc nhiên “ủa, không có nhà hàng lo cho ăn nữa sao?”

Trong khi chờ “đại diện” nấu ăn, mọi người bắt đầu làm quen nhau và ... tán dóc.

- “Ủa, sao anh mang theo có một cái bao nhỏ xíu vậy?”

- “Mang chi nhiều. Chỉ cần 2 cái xà lỏn và cái bàn chải đánh răng, Tuần nầy mặc 1 cái, tuần sau dzục đi, thay cái mới là ... về rồi!”

Có máu hướng đạo “sắp sẵn” cho nên tôi đã mang theo 1 cái áo lạnh, 2 bộ đồ, và 3 cái xà lỏn. Ít nhất cũng có một bộ tươm tất để thay trong ngày ... về!

Sáng hôm sau, cuộc đời bắt đầu ... rắc rối khi cần phải giải quyết cái khoái thứ tư. Vì không có nhà cầu cho nên tìm một khúc cây, ra càng xa chỗ ở càng tôt, bươi một cái lỗ vừa đủ, sau khi xong thì lấp đất lại. Không ai đào sâu hơn cho 1 lần đi hết cũng vì “Mẹ, có 10 ngày ...” Vài ngày sau thì đào cái lỗ sâu hơn. Sau 10 ngày thì bắt đầu đào cái hố sâu cả thước và bắc 2 thanh gỗ ngang, thế là từ đó có nhà cầu công cộng.

Hai tuần trước, tôi buồn vì không được vô trường NBTòng nơi dành cho sĩ quan biệt phái, nhưng sau đó mới biết mình hên, vì bên trại Biệt Phái (cạnh trại tôi) bị “đì” tối đa, dù có tiền cũng không được gởi mua nhu yếu phẩm. Tình cờ tôi biết có một anh CN2 ở bên đó cho nên tôi làm muối xả bỏ vô hũ chao kèm theo 1 trái chanh và nhảy rào mang qua cho anh. Anh mừng lắm!

Chờ mãi chả thấy học hành gì hết, thiên hạ bắt đầu thắc mắc “còn có mấy ngày làm sao học hết bài của 10 ngày? Rốt cuộc là có lịnh chuẩn bị học tập, ngày mai lên lớp. Bò ra đất vẽ biểu ngữ, có anh đang ngồi nắn nót vẽ “bác” bị một anh quản giáo đi ngang hét lên “Ai cho anh vẽ Bác? Các anh chưa đủ tư cách để vẽ Bác!”

Quản giáo lên lớp, bắt đầu hướng dẫn làm bản “Tự Khai”, phải khai đến 3 đời làm 1 anh phát bịnh. Sau đó đến phần trả lời thắc mắc. Có người hỏi, đại khái:

- “Gần hết 10 ngày, bây giờ mới học, làm sao kịp 10 ngày để về?”

Quản giáo tỉnh queo:

- “Ai nói với các anh là đi học 10 ngày?”

- ???

- “Cách mạng” lịnh cho các anh “mang theo lương thực 10 ngày, chứ đâu có nói “học tập 10 ngày”

- !!!

- “Bây giờ, các anh đã vào đây thì gắng mà học tập cho tốt”

- “Bao giờ thì chúng tôi được về?”

- “Việc đó thì tùy các anh. Khi nào học tập tốt thì được về!”

Người ở trong trại thì bị lừa “học tập tốt thì sẽ được về”, còn người ở bên ngoài thì bị dụ “đi kinh tế mới thì chồng, cha sẽ được về”. Một lần nữa “cách mạng” lại thắng lợi vẻ vang. Hằng triệu người có liên hệ đến Việt Nam Cộng Hòa bị đuổi ra khỏi thành phố, tài sản bị cướp một cách công khai, trắng trợn mà không xảy ra “một cuộc tắm máu” như Mỹ-”Ngụy” đã tuyên truyền trước đây. Sau ngày “giải phóng”, kinh tế “phồn vinh giả tạo” của miền Nam bị san bằng để người dân 2 miền được bình đẳng với nhau. Đời sống vô cùng cơ cực, người dân miền Nam ví mình bị đẩy lui về những thời kỳ “đồ đá”, “đồ đồng”, v.v..., nhưng đúng nhất chắc phải là “đồ đểu!”

Đói, đói, và đói ... Chúng tôi ăn gần như mọi thứ kiếm được trong trại, trong rừng. Châm ngôn của năm đầu tiên là “cái gì nhúc nhích thì ăn được”, qua năm sau khi “tài nguyên” trở nên khan hiếm thì “cái gì không gây bịnh là được ráo!” Đặc sản số 1 là rắn và nhiều nhất là rắn lục. Hễ gặp là lấy xẻng xắn cái đầu, moi cục mật màu tim tím bỏ miệng nuốt cái ực, rồi nhóm lửa, nướng, lột da, ăn ngấu nghiến, Lúc đầu thấy cục mật cũng hơi nhợn nhưng nghe kháo là mật rắn chữa được nhiều thứ bịnh cho nên cũng ráng mà nuốt.
Ai bảo khoai mì sống là độc? Tôi và một tên nữa, mỗi thằng chơi hơn 1kg, gần chết, không phải vì độc mà tại khi uống nước vô thì nó nở ra. Muốn ị không được, muốn ói cũng không ra, chỉ có nằm ... thiền qua đêm mới khỏe lại. Hai thằng thề sẽ không ăn nữa, nhưng chỉ vài ngày sau là quên mất lời thề!
Trộm bắp thì rất ư là thiện nghệ: nhảy vô rẫy bắp, tuốt lá xuống, nghiêng đầu theo trái bắp, cạp lia lịa, xong tuốt lá ngay ngắn lại rồi dzọt.
Vào mùa trái cây thì sáng ra khi đi rừng lấy cây làm nhà, bọn tôi chạy đua để lượm trái rừng nhét cho đầy bụng. Trái Trân lớn bằng ngón tay cái, rất ngọt nhưng rất nhớt, chỉ cần chơi 1 trái là Tào Tháo rượt ngay, vậy mà chẳng thằng nào sợ. Nuốt 1, 2 chục trái xong là bay vào rừng “thăm bác”!
Hễ không đi rừng, không có gì để độn thì “mời bác xơi nước”. Cứ khoảng 9 giờ sáng, đói run lẩy bẩy, chạy đến chảo nước to tổ bố, ôm lấy cây cột và tu một hơi 2 bi đông (chừng 2 lít) cho đỡ đói. “Nhờ” đói triền miên mà bỗng nhiên miếng cơm cháy trét chao dòn, thơm, và ngon vô cùng. Mãi cho đến hôm nay, kể cả lúc ở Paris được ăn miếng bánh mì baguette và fromage, tôi vẫn chưa bao giờ thấy tuyệt như vậy!

“Cách mạng” nuôi tù chả tốn kém bao nhiêu. Lán trại và dụng cụ canh tác thì tù tự xây cất lấy và làm ra mà dùng. Liềm thì cắt tôn từ thùng phuy, búa rìu thì rèn từ mấy cái chốt thép hình vuông nối vỉ sắt phi đạo dã chiến. Cách mệnh chỉ mua cho búa tạ và quạt gió bơm bằng tay. Lò rèn thì cũng tự xây lấy và dùng than củi, vừa bơm vừa phun nước vô lửa (cho lửa nóng thêm). Tất cả đều nhờ anh em gốc kỹ thuật làm nên. Ngay đến cái võng, anh em cũng chỉ nhau tự làm lấy mà nằm: gỡ sợi từ các bao cát cũ, se thành dây rồi móc thành võng.
Gần suốt năm đầu tiên, tù được ăn gạo (chắc là) mang ra từ các mật khu. Gạo mục, sâu nhiều, nhiều đến nỗi lúc đầu khi cơm bắt đầu sôi, anh em còn ráng lấy cái giá vớt sâu ra nhưng vớt mãi mệt quá, vả lại vớt hết sâu thì còn được bao nhiêu cơm để mà ăn; thôi thì, sâu cũng là nguồn protein đành nhắm mắt mà nuốt.
Chỉ có lúc ở Long Khánh thì tương đối đỡ khổ, có cá biển ăn. Đa số là cá Ngừ nên rất nhiều anh bị dị ứng, lở loét đến nỗi có người phải lấy khăn quấn làm xà rông chờ tự nhiên mà lành chứ chẳng có thuốc men gì ráo. Dị ứng chẳng chết được, có chết thì cũng nhẹ gánh cho cách mệnh. Những lúc có anh em bị bịnh bỏ ăn thì các anh em khác mừng thầm đúng như tục ngữ mới “một con ngựa đau, cả tàu ... mừng rỡ!”

Từ lúc nào cũng không hay, con người bỗng trở thành gần như con vật, không hơn không kém, không phải chỉ trong trại mà ngay cả người dân ở bên ngoài, chỉ biết tranh nhau từng miếng cơm, manh áo. Bấy giờ mới hiểu được những lời lẽ chất phác trong một bức thư của một anh bộ đội gởi về cho mẹ ở miền sâu ngoài Bắc trước khi lên đường vô Nam: “Con bây giờ sướng lắm, cơm ngày 3 bữa, quần áo mặc cả ngày!”

Chúng tôi cũng có dịp kiểm chứng những bài thuốc dân gian. Có anh bị sạn thận, đau quá chịu không nổi, nghe nói đu đủ sống có thể chữa được cho nên hái lấy 1 trái xanh ngay trên cây trước trại, nấu lấy nước, vừa uống vừa “mẹ nó, đắng quá!”. Thuốc đắng nhưng vẫn không dã tật! Có một anh khác bị suyển, nghe nói máu của con Trúc (có vảy, bắt kiến bằng cách đi vô ổ kiến, giương vảy lên cho kiến vô rồi xếp vảy lại, nhảy xuống nước, giương vảy ra, kiến nổi lên rồi xơi) có thể chữa được bịnh, anh bắt được 1 con nhưng trước khi uống máu thì bạn bè lo lắng “nghe nói, Trúc có vi trùng cùi”. Chàng dứt khoát “mẹ họ, cùi nhưng ... thở được chắc khỏe hơn?” Rồi, anh không bị cùi mà vẫn cứ hụt hơi!

Tiếp xúc với bộ đội thấy các anh cũng có tinh thần dân tộc lắm. Có lần, một anh bộ đội đến đòi lại cái tông đơ cho chúng tôi mượn, vì nghe nói các anh thích dùng tiếng Ta hơn là tiếng ngoại cho nên tôi tò mò hỏi “cái nầy anh gọi là cái gì?” Anh ta nhìn tôi từ đầu xuống chân rồi nói như cái máy “Ối giời, ‘nịch’ sử, địa ‘ný’ Mỹ thì các anh thuộc ‘nàu nàu’, có cái “lầy” mà các anh cũng không biết gọi ‘nà‘ gì”. Tôi cố nén “là gì vậy anh?” Anh ta trả lời “Giời, có cái tông mà cũng không biết!”

Hãi hùng nhất là phẫu thuật của “cách mạng”. Có anh bị đau ruột dư, được đưa lên bàn mổ, không thuốc mê, anh hét rầm trời, cả trại đều nghe. Không biết có phải vì y khoa tiên tiến của cách mệnh mà em tôi, một Bác Sĩ Y Khoa Sài Gòn, phải vất vả từ bỏ “thiên đường” để đi Mỹ dù không biết tương lai sẽ ra sao!

Khổ như vậy nhưng anh em vẫn không quên ráng tìm cho được cái cười. Một lần, trong khi quản giáo đang lên lớp thì bỗng nhiên tôi nghe tiếng khúc khích, hỏi tên bên cạnh, nó không biết tại sao, hỏi tên ngồi trước thì nó nói “bia lên”. Tôi không hiểu gì hết. Đến khi nhìn lên khán đài, chỉ thấy 1 cái đầu đội nón cối nhô lên khỏi cái bục giảng giống như tấm bia ở xạ trường được quay lên sau mỗi lần huấn luyện viên hô “bia lên”. Khi 2 tiếng “bia lên” vang to hơn thì quản giáo ngừng lại, với giọng rất nghiêm chỉnh “Vào đây rồi mà các anh vẫn còn mơ tưởng đến bia. Bia đâu mà bia!”
Một tối, trong giờ họp tổ, 1 tờ giấy được chuyền quanh với những cái miệng cố giữ cho tiếng cười khỏi bật ra. Đến tôi, thì đúng là không thể không cười. Tờ giấy vẽ cảnh chụp hình tù cải tạo: 1 tấm vải đen trùm lên 1 cái nón cối đang lom khom sau máy hình, thò ra 1 bàn tay cầm súng lục chĩa về người tù ngồi phía trước và nói “cười đi!”

Thỉnh thoảng chính các anh bộ đội hay các mẩu chuyện từ bên ngoài cũng giúp chúng tôi giải khuây dăm ba phút. Có anh bộ đội hỏi tôi “đi dạy anh có lận súng theo không?” thì ra các anh tưởng giáo chức biệt phái là công an gài vô trường học. Và những chuyện xảy ra ngay sau khi đất nước thống nhất, như dân ở ngoài Bắc đã mang theo 1 chục chén đá hay 1kg đường cát để làm quà đã làm trò cười cho bà con trong Nam!

Khoảng một năm sau mới được thăm nuôi. Có lần bắt gặp 1 bản tin đăng trên báo “Giải Phóng” lên án Chính Quyền Thái Lan dã man, vô nhân đạo, bắt giữ tù chính trị giam cả tháng không cho thăm nuôi, chúng tôi cắt lấy và dán lên bảng tin. Mấy ngày sau bị gỡ xuống; cũng mua vui được vài trống canh!
Vợ và các em tôi lên thăm tôi lúc ở Katum, gần biên giới Việt-Miên. Khệ nệ gần 40kg quà, các em tôi thắc mắc “nhiều thế nầy, làm sao ảnh khiêng hết vô trại được?” Trò chuyện được 1 tiếng thì hết giờ. Từ giã nhau xong, tôi lấy 1 cái cây dài bằng cái đòn gánh và 2 cái gióng tự chế, chất quà lên, hồ hởi te te gánh đi, trong khi vợ và các em tôi khóc ròng nhìn theo “anh nông dân” đen đủi, chân lấm tay bùn!

Gần sáng một đêm tháng 7/1977, một số người - trong đó có tôi – được gọi chuyển trại. Lúc bấy giờ, được chuyển trại thì may nhiều hơn rủi; không như mấy năm về trước, chuyển trại đồng nghĩa với thanh lọc để đưa đi Suối Máu hay ra Bắc. Trong lúc tôi rời lán trại thì có mấy tên nói vói theo “Ứng, ăn đầu rùa đâu có xui hả mậy?” Số là chiều hôm trước, tụi nó làm thịt 1 con rùa, chia phần đến cái đầu thì không tên nào chịu lấy hết. Tôi nói “sợ xui, thì đưa đây cho tao. Mẹ, vô đây rồi còn xui với xẻo!”

Được đưa về Hóc Môn. Vài ngày sau thì anh cả tôi cũng được đưa về đây. Thấy đa số toàn là những người có chuyên môn kỹ thuật và theo tin đồn thì nhà nước đang thả chuyên viên ra để phục vụ cho nên chúng tôi đoán là phen nầy sắp được thả. Hơn một tháng sau thì được thả thật! Thì ra, tại khác biệt ngôn ngữ Bắc Nam, anh em không để ý chứ trong buổi lên lớp đầu tiên, cán bộ có nói “các anh cứ yên tâm học tập, cách mạng sẽ tự ‘no’, không cần đến các anh”. Hơn 2 năm sau, khi cách mạng “no” rồi thì chúng tôi được về để lo tiếp.


Quê Hương Xã Hội Chủ Nghĩa


Ra khỏi trại, đầu tiên tôi về nhà ba mẹ để thắp nhang cho hai người. Sau khi vô trại được 4 tháng thì ba tôi mất vì tuổi già và thương nhớ con, nhưng mọi người dấu kín cho đến lần thăm nuôi đầu tiên mới cho tôi biết. Còn mẹ tôi thì qua đời khoảng 2 tháng trước khi tôi được thả. Đúng ra thì mẹ tôi còn sống lâu hơn thế nữa nhưng vì thời thế khủng bố tinh thần, chồng mất, con cái bị chia lìa, 1 đứa đi Mỹ, 2 thằng đi cải tạo không biết ngày về, mấy đứa khác thì bỏ học, làm bà mất trí và lâm bịnh nặng. Thật không sai “không gì khổ hơn bằng thấy người thân mình bị khổ”. Cũng vì vậy mà trước 1975 thì bà góp nhặt vòng vàng đánh sẵn chờ khi nào nước nhà thống nhất thì bà cho các o ở Nghệ An, nhưng sau hòa bình, bà không tiếp ai hết!

Sau đó về nhà bố mẹ vợ. Dù vợ tôi đã chuẩn bị nhưng con gái tôi, đã được hơn 2 tuổi, cứ đứng nhìn mặc cho bố giang tay và gọi. Tôi kiên nhẫn làm quen với con. Mỗi sáng đạp xe đưa con đến trường mẫu giáo, chiều về hỏi con “hôm nay con học được gì?”, nó hát ngay “Đêm qua em mơ gặp bác Hồ ...” Muốn hát theo “chưn bác dài, bác đạp xích lô” nhưng không dám, sợ ngày mai vô lớp nó “trả bài” thì khốn nạn! Đến cái ăn, cái nói tự nhiên của một con Người cùng không dám vì sợ trẻ thơ vô tình khai với cô thì chết cả lũ!

Ngày càng thân, tôi bắt đầu dạy con học dù không biết học để làm gì. Trong cái xã hội mà 2 chữ “Liêm, Sĩ” đã nhường cho nhúm cơm, hạt muối thì dạy con để làm người đàng hoàng, đứng đắn gần như là ảo tưởng; vả lại, với cái lý lịch “Ngụy” thì dù có chuyên nhưng không hồng, nó sẽ không thể nào lên đại học được. Nhưng vẫn cứ dạy, mong sao “Công Cha như Núi Thái Sơn, Nghĩa Mẹ như Nước Trong Nguồn chảy ra” sẽ khử được “Công Đảng và Ơn Bác”!. Nhiều tên đường bị đổi và ai đó đã ghép tên mới với tên cũ lại thành ca dao như “Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý” và “Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do” không biết có làm nhức nhối “mặt trận giải phóng miền Nam” hay không?

Được vài ngày thì các em tôi cho biết chúng sắp vượt biên. Vì mới ra trại, chân ướt chân ráo, tôi không quyết định được. Ngày tiễn chúng ra đi, đứng trên cầu Bình Triệu nhìn theo chiếc xà lan mà người bần thần, vừa buồn vừa lo. Buồn vì không có phần mình trong đó, lo vì sợ các em đi không thành. Chuyến đi của các em tôi thật trần ai. Vừa ra khơi là xà lan bị chết máy, bị gió thổi tấp vào Thái Lan, bị lính Thái đánh đập, đuổi ra. Cứ vô, ra như vậy, mất gần 2 tháng mới đến được Malaysia.

Nhờ cô chú của cô em dâu giới thiệu, tôi được nhận vô làm kỹ sư cho 1 hãng thầu hợp doanh xây cất cầu đường. Ông Phó Giám Đốc là chủ cũ của công ty đã được hiến cho nhà nước. Nói chung ông vẫn còn được quyền điều hành kỹ thuật cho công ty nên nhân viên được “nhẹ thở” rất nhiều. Ông và đa số nhân viên còn ráng bám lấy công ty là để kiếm đường vượt biên, vì công ty có công trình rải rác từ Sài Gòn ra đến Đà Nẵng. Vào đây, tôi cũng đã đưa được anh bạn tù (đã uống máu con Trúc) vào giữ sổ sách cho kho vật liệu. Anh sợ không làm được việc (vì hồi ở Quân Vận anh có làm gì về kỹ thuật đâu) cho nên tôi dặn anh “cứ nói anh biết đánh máy, biết kế toán” là xong. Cán bộ còn không dám đụng đến máy đánh chữ trong khi anh dám dùng 1 ngón để “oánh” nó thì sợ gì!

Đi ra, đi về miền Trung cũng đỡ buồn. Một lần trên con đường cái quan - Quốc Lộ 1, tôi và 1 anh thợ thấy 1 ông lão đang ngồi lấy dây kẽm mạng lại cái rổ rách tươm bươm, ngừng lại chọc ông “Sao bác không kiếm cái mới mà xài?” Ông nói “Mạ nó, thời Mỹ-”Ngụy” thì tui vứt nó rồi, bây giờ nhờ ơn cách mệnh cho nên phải sửa lại mà xài!” Sợ mang vạ, 2 thằng vội nhảy lên xe chạy tiếp.

Làm được vài tháng, thấy không có gì “hấp dẫn” nên tôi đi tìm việc khác, làm cho một công ty xây cất nhà máy nước đá và cầu kè ở các thành phố gần biển. Sau khi nói chuyện với ông Trưởng Phòng Kỹ Thuật và đang chờ quyết định thì gặp 1 người bạn cùng khóa đi vô. Tôi hỏi “làm gì đây mậy?” Nó trả lời “mới ra trại, đi kiếm việc đây”. Tôi nói “Vậy à, để tao nói với ông TP mướn mầy trước vì tao đang có việc làm, chừng nào ổng cần người thêm thì kêu tao”. Khi ông TP trở ra cho biết sẽ mướn tôi và khi nghe tôi nói như vậy thì ông khựng lại “chờ đó để tui coi”, rồi ông trở vô phòng GĐ. Một lúc sau, ông đi ra cười cười “Được rồi, tui mướn cả 2 anh!”

Ông TP này là dân tập kết, bất mãn và không biết tại sao ông lại có vẻ thân thiện với tôi. Có lần ông hỏi “chừng nào anh đi”, bố tôi cũng không dám nói thật nên ỡm ờ “đi đâu hả chú?” “còn đi đâu nữa”. Tôi than “làm chó gì có tiền mà đi”. Ông ta nói nhỏ “mà thôi, có đi thì nhớ mang theo vợ con với, chứ ở nước ngoài một mình buồn lắm!” Chắc ông ta đang nhớ lại thời gian du học ở Đông Âu.

Trong một chuyến công tác đi Phan Thiết, 4 người - trong đó có ông Phó GĐ - ở chung 1 phòng ngủ với 2 cái giường 2 tầng. Khách sạn có 3 tầng lầu, mỗi tầng có 1 nhà cầu nhưng 2 cái trên lầu bị nghẹt hết, chảy lênh láng cả ra ngoài. Muốn giải quyết, phải xuống tầng dưới cùng có 1 cái còn thông, muốn tắm phải ra giếng bên ngoài, kéo nước lên mà tắm. Ông PGĐ, một dân “Tề” (cộng sản gọi dân ngoài Bắc trước 1954 ở lại thành không vô khu kháng chiến) và là kỹ sư tốt nghiệp Bách Khoa Hà Nội, nói nhỏ với tôi “anh thấy không, chiếm thì dễ nhưng giữ thì khó lắm!” Anh lãnh đạo nầy cũng thích “nói chuyện” với tôi, lần trò chuyện nào anh cũng “cười”.
Một sáng, lúc thấy anh đứng một mình trên cầu tàu nhìn ra biển, tôi đến sau lưng hỏi “anh đang nghĩ gì đó, tìm đường đi hả?” Anh có vẻ cam phận “sống sót hơn 20 năm rồi, đi đâu bây giờ!”
Sau khi nghỉ công ty, trở lại thăm bạn bè, gặp anh, anh hỏi đang làm gì, tôi phịa “dạ, làm cho một hợp tác xã cơ khí”, anh hỏi “làm sản phẩm gì vậy?”, “làm tông đơ”, anh tỏ vẻ ngạc nhiên “thật sao, có bán được không”, tôi nói “nhờ ơn cách mệnh, không có hàng ngoại cho nên cũng bán được!” Anh tủm tỉm “lại nói móc nữa!!!”

Cướp công là nghề của các đồng chí. Lúc đó tôi đã chuyển qua làm phòng Kế Hoạch. Một buổi sáng anh chàng phó phòng KH đến hỏi tôi “muốn đóng cừ làm kè phải làm sao?” Tôi nói “cần có xà lan và búa máy”. Xà lan nổi xa bờ, búa kéo một khối bê tông lên cao rồi thả tự do rơi xuống dộng vô cừ cắm xuống đất. Xong chỗ nầy thì chạy xà lan đến chỗ khác để đóng tiếp. Vừa nghe xong, chàng ta nói “Giời ơi, anh cứ như là còn làm cho Mỹ ấy”, tôi hỏi lại “vậy theo anh phải làm sao”, anh ta nói “ta kết bè tre, dựng cột cho công nhân kéo cục bê tông rồi cho rơi mà đóng, xong chỗ nầy thì ta lại kéo bè đến chổ khác” Thấy mình “lạc hậu” quá cho nên tôi im. Không ngờ sáng hôm sau vừa mới ngồi vào bàn thì anh Phó GĐ đến gọi tôi vô họp với Ban GĐ. Tôi hỏi “họp về việc gì vậy anh”, anh trả lời “Ông GĐ mời anh vô để bàn về phương án ... đóng cừ!” Tôi trả lời ngay “dạ, tôi có biết gì về việc đó đâu”. Anh ta ngạc nhiên “Ủa, sao anh phó phòng KH nói là anh biết” Thì ra anh chàng đó tính lập công nên đề nghị cách của tôi vừa nói hôm qua, nhưng khi bị hỏi đến chi tiết thì ... bí, nên đành phải chỉ tôi!

Có một dạo, trưa nào cũng ăn mì luộc “chay”, thỉnh thoảng mới có được một miếng khô cá sặc. Một trưa, ông Bí Thư công ty đi ngang (chắc ông đã để ý từ lâu nhưng hôm đó không ngăn nổi tò mò mới ngừng lại) hỏi “anh Ứng chỉ ăn có vậy thôi sao”, tôi trả lời “dạ, hàng nhà nước mua được gì thì ăn nấy thôi, chứ chú”. Ngày hôm sau tôi thấy ông từ phòng GĐ đi ra, mặt giận dữ nói với anh phó phòng KH vừa mới vào xin công ty hoàn tiền công tác “Mấy anh bây giờ đi liên hệ ở đâu cũng phải có thuốc lá ngoại vậy sao?” Ông Bí Thư nầy chắc là người có lý tưởng, không chịu nổi khi thấy cảnh một anh “học tập” về sống cơ khổ trong khi “cách mạng” đi đâu cũng “thuốc 3 số 5”. Thật tội cho ông, “một cây làm chẳng nên non”, không chừng nay mai mới ngộ chân lý “ăn như tu, ở như tù, về h(ư)u mới biết mình ngu!”

Từ ngày cách mệnh thành công thì hàng giả tràn ngập khắp nơi và tất cả nghề làm ăn cá thể đều ... lậu! Khổ nhất là khi có thân nhân bị bịnh. Dân tin tưởng vào bác sĩ “Ngụy” cho nên chỉ đến các vị bác sĩ cũ. Từ trước tới giờ chỉ có người mang một bịnh bị gọi là “lậu”, thế mà nay khi bị bịnh lại phải đi cầu cứu bác sĩ ... lậu! Một lần vào gần nửa đêm, con tôi bị nóng gần 40 độ C, tôi ẵm con chạy như điên đến gõ cửa nhà một bác sĩ năn nỉ khám bịnh và mua thuốc ... lậu! Cảnh tượng không khác gì trong phim chưởng: nửa đêm khiêng người bịnh đến gõ cửa nhà thầy Lang để cầu khẩn. Kinh hoàng nhất là khi nghèo mà bị bịnh nặng, phải gom góp bán gần như mọi thứ trong nhà để kiếm mua 1 chai nước biển giá mắc như vàng, khi mang đến bác sĩ hóa ra là ... giả. Thật khốn nạn cho kiếp người trong XHCN.

Sau khi làm cho công ty nầy được 2 năm, được phục hồi quyền công dân và có thường trú ở lại thành phố thì tôi bỏ công ty, ra ngoài đóng 1 cái tủ ngồi trên lề đường gần chợ Đa Kao để sửa đồng hồ. Làm cá thể để khi cần “đi” thì có thể nghỉ mà không phải báo cáo hay bị theo dõi.

“Nhất sĩ, nhì nông. Hết gạo chạy rông, nhất nông, nhì sĩ!” Thợ sửa đồng hồ kiếm được gấp đôi lương kỹ sư (chỉ được 73 tiền Hồ/tháng). Nghề nầy đến với tôi không định trước. Một hôm, đang đạp xe lang thang ngoài đường, thấy 1 tủ sửa đồng hồ trên lề đường, tôi ghé vô tán dóc với anh thợ rồi mua 1 cái đồng hồ “ba rọi”: vỏ Hồng Kông, ruột tân trang làm quà cho vợ. Một, hai tuần sau tôi ngỏ ý học sửa đồng hồ thì anh ta nói “nghề nầy cha truyền, con nối, tui học từ nhỏ, làm sao anh học nổi?” Tôi nói “cho anh biết nghe, bên trong cái đồng hồ chỉ là 1 đống bánh xe răng thôi, có khác là đồ nhỏ xíu, chỉ cần quen tay là làm được thôi. Cái khó là làm sao để kim chạy đến 12 giờ đêm thì lịch nhảy thêm 1 số.” Anh chàng gật gù, thấy một tên coi bộ khá thông minh, chưa tháo đồng hồ bao giờ mà nói nghe ngon quá. Để thuyết phục thêm, tôi đề nghị một chương trình: tôi sẽ trả cho anh 100 tiền Hồ, anh dạy tôi 2 tuần, sau đó tôi sẽ tự hành nghề buổi sáng, cái gì không biết sửa thì giữ đó chờ chiều anh đến sửa và chỉ cho tôi. Cái nào anh sửa thì anh lấy tiền. Thế là anh đồng ý ngay, chắc anh chàng nghĩ còn lâu tôi mới làm được. Chỉ khoảng 3 tháng sau, không những tôi sửa được mọi thứ mà còn có khách đông hơn các thợ khác ở quanh đó.

Cha mẹ đã mất, anh em đi gần hết, nhất là con thì không có tương lai, cho nên sau khi được tin các em tôi đã đến Malaysia thì tôi cũng kiếm đường. Ngay “chuyến đầu” vì tin vào một người quen mà “cạn láng” ngay lập tức. Một chiều đưa vợ con theo nó đến một căn nhà bên cạnh một con rạch ở Rạch Dừa để giao vàng cho “tổ chức”. Chúng hối “Đưa đây lẹ lên rồi ra chợ Vũng Tàu chờ ở đó”. Chờ đến 10 giờ tối thì có 1 thằng đến nói nhỏ “bể rồi, đừng đứng đây nữa, coi chừng công an!” “Trời!” Người tôi bàng hoàng, trống rỗng. Tôi không sợ công an vì biết là đã bị lừa. Bị lừa một cách quá dễ dàng, chỉ trong vòng mấy tiếng đồng hồ tôi đã đánh mất phần vàng của mẹ tôi để lại cho các em chia cho tôi!

Trong chế độ cộng sản, muốn gạt người không khó, chỉ cần la lên “công an” là mọi người chạy tứ tán, bất kể sống chết. Có lần tôi ghé xe gắn máy vô lê đường để mua xăng lậu, phải đưa tiền trước rồi con nhỏ bán xăng mới lôi 1 chai từ bao bố ra, úp vô bình xăng. Chai chưa cạn thì có tiếng hô “công an” thế là mạnh ai nấy chạy. Chạy được 1 đoạn thì xe khọt ... khẹt...! “Mẹ tổ, dầu hôi!”

Sau đó lại bị mất “lai rai” (tiền có được nhờ bán quà của anh em gởi về) trong vài chuyến và trở thành “bần cố nông” thứ thiệt cho đến khi một người bạn cùng khóa rủ đi chuyến do anh của nó tự đóng tàu để đi “bán chính thức”. Thấy thằng em tội quá, ông anh cả bàn để cho tôi đi trước và đưa cho tôi số vàng của ông để đóng cho bạn. Đến giờ chót thì tất cả các chuyến đi bán chính thức bị ngưng lại vì áp lực quốc tế nhằm chặn đứng làn sóng tị nạn mà phần lớn họ biết là do nhà nước tổ chức để vơ vét vàng của người Việt gốc Hoa.

Chờ mãi gần 2 năm thì đi được. Cũng nhờ Trời! Hôm đó tàu chuẩn bị đi nhưng tôi không hay biết gì hết. Sáng mồng 10 Tết năm Tân Dậu (14/2/1981), định đi sửa đồng hồ như mọi ngày nhưng tự nhiên người bồn chồn nên tôi đạp xe đến nhà 1 trong mấy người bạn cùng khóa và cũng đang ngóng ngày đi, thì mới hay là phải ra điểm hẹn ngay để đi!


Trên Đường Tạm Dung

Chuyến vượt biên của chúng tôi tương đối suông sẻ (ngoài 1 lần bị tàu đánh cá Thái Lan rượt đuổi nhưng chạy thoát), mất có 3 ngày là đến 1 giàn khoan dầu và được kéo vào đảo Pulau Bidong, Malaysia.

Lên đảo, vợ tôi gặp lại cậu em đã vượt biên trước đó gần 2 năm, 2 chị em mừng mừng, tủi tủi. Cậu em đưa chúng tôi về nhà, nhường cho chúng tôi 1 cái nhà nhỏ có 1 giường vừa đủ 3 người nằm và thêm 1 cái bếp nhỏ. Bữa cơm đầu tiên, cơm trắng và gà kho do cậu em và các bạn nấu cho ăn ngon vô cùng! Cho đến bây giờ tôi vẫn chưa thấy đầu bếp Tây, Tàu nào kho gà ngon như vậy!

Trên đảo cũng có nhà cầu công cộng nhưng nhớp nhúa và hôi thúi cho nên mọi người thích ra bờ biển núp sau các ghềnh đá thoải mái hơn. Dân tị nạn nhớ “bác” lắm cho nên mỗi khi đi tìm cái khoái thứ tư thì họ bảo là đi “thăm bác!”

Biển mặn! Gió quyện mùi muối lẫn mùi hôi bốc từ các ghềnh đá dường như không làm bận lòng người tị nạn. Dù không được tinh khiết cho lắm nhưng hương Tự Do lại tuyệt diệu hơn cả “hương đồng, gió nội” ở “thiên đường cộng sản”. Đứng trên mỏm đá nhìn ra biển, mặc cho ưu tư chưa biết sẽ được quốc gia nào đón nhận, tôi thấy lòng vô cùng thanh thản, một sự thanh thản không vương chút sợ hãi đã bị cướp mất trong gần 6 năm sống trong lọc lừa dối trá. Càng nghĩ tôi càng xót xa cho những chữ “không gì quý hơn độc lập tự do” quỷ quyệt đang ra rả mỗi ngày trên quê hương tôi.

Ngay sau khi ổn định “nơi ăn chốn ở”, tôi tình nguyện đi dạy ... Anh văn do Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc tổ chức. Mục đích của Cao Ủy là dạy cho dân biết chữ nào hay chữ đó trước khi lên đường định cư. Thầy giáo chỉ cần biết hơn những người chưa biết chữ nào là được nhận hết, sau khi được huấn luyện cấp tốc dăm ba ngày. “Thằng Chột dẫn thằng Mù” là thế, giúp nhau tiến tới 1 tương lai sáng lạn trước mặt! Bấy giờ mới thấy tội cho dân mình, lâu ngày không được học, nay khỏi phải kiếm cơm mà lại được học cho nên học rất là chăm chỉ; vả lại, đến xứ người chắc là người ta không biết tiếng Việt đâu, nên càng ráng học, biết đâu thêm 1 chữ là đỡ mỏi tay 1 chút!

Nhờ đi dạy mà quen được các tình nguyện viên của Cao Ủy. tôi nhờ một cô người Mỹ mua cho một ít dụng cụ để mở lớp dạy sửa đồng hồ. Vì nghe nói nghề nầy ở các nước khác cũng kiếm ăn được cho nên tôi muốn chỉ cho người khác có một nghề để may ra họ kiếm được một việc làm khi đến xứ người. Người khách đầu tiên của tôi là cô Mỹ đó. Cô rất lấy làm thích thú khi thấy cái đồng hồ để bàn của cô chạy lại được và chạy đúng giờ.

Thật là may mắn, chúng tôi lên đảo vừa đúng lúc Mỹ thay đổi chính sách nhận người tị nạn. Cựu quân nhân và công chức VNCH được trở thành ưu tiên 1 cho nên chỉ trong vòng 4 tháng là chúng tôi được rời đảo về trại Sungai Besi ở Kuala Lumpur. Ở đó chúng tôi được học các tập quán của những xứ sắp đến để khỏi bị “va chạm văn hóa”, thí dụ như “dù có thích người bảo trợ cách mấy thì cũng đừng rủ nằm chung giường để trò chuyện cho vui, như bà con ta thường làm với bạn bè ở VN”. Khoảng 1 tháng sau, chúng tôi được đi Mỹ do anh em tôi bảo trợ!


Quê Người

Rời Kuala Lumpur, máy bay ghé Hong Kong nghỉ qua đêm (chắc để bốc thêm người tị nạn). Hôm sau đến Tokyo đổi máy bay và thẳng hướng về Mỹ. Trong lúc chờ máy bay ở Tokyo, một người đẩy xe nước cam mời gọi nhưng dân tị nạn chỉ dòm ngó thòm thèm rồi lắc đầu; đến khi nghe ông ta nói “free” thì “hàng ngàn cánh tay giơ lên” (kết quả của lớp Anh văn ở đảo) và vèo một cái, xe nước cam sạch trơn! Ông ta cười và đẩy xe đi. Ôi! Nụ cười của 1 người hoàn toàn xa lạ sao mà dễ thương như thế!

Ngày 21 tháng 7 năm 1981 máy bay đáp xuống Seattle, Washington rồi từ đó mọi người được đổi máy bay để về với người bảo trợ của mình. Nhân viên của Hội Thiện Nguyện USCC đã chờ sẵn tại phi trường Seattle, một ông Mỹ đến gần chúng tôi (cả nhà đều mang dép) và lấy ra 1 đối vớ trắng tinh mang cho con tôi làm vợ chồng tôi lại thêm một lần ngạc nhiên vì cách đối xử của một người dị chủng không hề quen biết!

Đổi máy bay đi Portland, Oregon. Vừa vào phi trường thì thấy tất cả anh em, chị em dâu, và các cháu đang chờ chúng tôi, trừ đứa em kế đang thực tập bác sĩ tại Louisiana. Tay bắt mặt mừng, khi thấy vợ tôi chỉ cầm 1 cái túi nhỏ, anh em hỏi còn gì nữa không để đi lấy, tôi nói “dạ, chỉ có vậy thôi!” Quây quần chụp hình xong, mọi người ríu rít kéo nhau ra xe và về Beaverton nơi anh em tôi ở.

Mấy ngày đầu, anh em tụ lại nói chuyện thâu đêm. Suốt một tuần, được anh chị em dẫn đi xin thẻ an sinh xã hội và trợ cấp xã hội, đi chơi khắp nơi làm quen với thành phố mới, và shopping. Cảm động nhất là ông anh kế tôi đã mua sẵn cái đồng hồ Sony điện tử có mấy hàng nút máy tính nhỏ xíu để chờ tôi qua (tôi vẫn còn giữ). Nhờ anh em mà chúng tôi đã hội nhập cuộc sống mới dễ dàng hơn nhiều người khác, nhất là không thiếu thức ăn VN. Ông anh kế tôi kể lại hồi ông mới dọn đến Portland, người Việt rất ít, chợ VN chưa có, nước mắm cũng không. Khi đi San Francisco ông mang về 1 chai nước mắm, bạn bè xúm lại mỗi người húp 1 muỗng, đã ơi là đã!

Sau đó, tôi quá giang anh tôi đi Community College vừa để học ESL vừa để ôn lại các môn kỹ thuật căn bản. Được hơn 1 năm thì anh em tôi dọn đi các tiểu bang khác tìm cơ hội mới. Em út của tôi bắt được job kỹ sư, là người cuối cùng dọn đi Colorado, đã cho chúng tôi chiếc Ford Maverick mới có 7 năm làm phương tiện di chuyển.
Học được 2 semesters thì tôi đi kiếm việc làm. Công việc đầu tiên là làm assembler cho 1 hãng điện tử ở Beaverton. Mỗi tuần 62 tiếng, làm bù đầu nhưng vui vì bắt đầu có tiền để dành, và có thêm cô bé thứ 2 ra đời chào mừng bố mẹ và chị!

Mặc dù đang được trợ cấp xã hội nhưng tôi muốn đi làm, dù việc làm thấp, để vừa tự nuôi gia đình vừa thực tập tiếng Anh. Nhờ người em út của tôi mà tôi tin rằng muốn bắt được job kỹ sư thì cần chứng tỏ mình có kinh nghiệm và khả năng Anh văn, chứ các công ty không phân biệt bằng cấp Mỹ hay VN. Do đó, thay vì trở lại trường để lấy bằng Mỹ thì tôi vừa đi làm vừa tự học ôn các môn kỹ thuật để thi lấy Professional Engineer License (PE). Một trong những điều kiện để được cấp PE là phải đậu 2 kỳ thi. Nghe nói tới thi thì tôi phát lãnh, nhưng nghĩ tới cái nợ tiền học 20 ngàn (chưa kể tiền ăn ở) đành phải hạ quyết tâm. Quyết tâm càng cao khi nghe văng vẳng tiếng hát vừa hăm dọa vừa dụ dỗ “anh chưa thi đỗ, thì chưa, thì chưa ... động … phòng!

Làm assembler được vài tháng thì bị laid-off vì hãng ít việc. Được em tôi cho biết ở Colorado có nhiều việc hơn cho nên chúng tôi dọn đi ngay. Colorado: xứ lạnh tình nồng! Vợ tôi làm ca ngày, chiều về vừa coi con vừa nấu cơm; trong khi tôi đi làm đến hơn nửa đêm mới về, ngủ vài tiếng, thức dậy vừa trông con vừa học bài. Cuối tuần 2 gia đình anh em chúng tôi đi chơi với nhau. Nghèo mà vui, như người em kế của tôi có lần đã nói.

Một năm sau tôi đậu được Phần 1. Trong khi tiếp tục học thi Phần 2 thì tôi gởi gần 100 resumes đi kiếm việc. Cuối cùng được gọi đi phỏng vấn và nhận job Designer cho một công ty chế tạo máy móc để tách khí đốt và nước ra khỏi dầu thô. Nhờ công việc nầy mà tôi học thêm được kinh nghiệm kỹ thuật và cách làm việc rất có ích để đi kiếm việc làm cao hơn sau nầy.

Vừa làm designer vừa tiếp tục kiếm việc kỹ sư. Nhờ em tôi giúp mà tôi được Ball Aerospace gọi phỏng vấn, và cũng nhờ đã gặp nhau trước cho nên tôi không khớp lắm khi gặp ông Manager. Sau khi quay tôi về các kinh nghiệm tôi đã làm được, ông Manager nói với tôi “Em của anh cứ thúc tôi mướn anh, tôi hỏi hắn tại sao, hắn nói là vì anh đã dạy nó Kỹ Nghệ Họa!” Ôi, 3 chữ Kỹ Nghệ Họa dễ thương làm sao!

Ông ta cũng hỏi tôi tại sao tôi không trở lại trường. Tôi trả lời:

- “Vì tôi thấy chuyện bằng cấp lấy ở đâu không quan trọng bằng kinh nghiệm và ngôn ngữ; cho nên tôi đã bỏ trợ cấp xã hội (có điểm lắm vì người Mỹ không ưa “ăn welfare”) mà đi làm ngay để tập nói tiếng Anh”

- “Cũng chưa chắc đúng ...” Ông ta nói và kể cho tôi nghe chuyện một Luật Sư bảo trợ một thanh niên từ Đông Âu, anh nầy đi làm thợ in ngay khi đặt chân đến Mỹ. Một tháng sau, ông Luật Sư mở tiệc để giới thiệu anh thợ in với các bạn của ông ta. Theo thói quen, một bà bạn luật sư hỏi thăm anh thợ:

- “Anh thấy nước Mỹ ra sao, anh có thích không?”

- Anh thợ trả lời “Oh, ít’s f__k’n good!!!”

Thế là anh thợ được phép ... trở vô bếp cho đến khi tiệc tàn!

Hai tuần sau, cũng vào một ngày tháng 4 nhưng là năm 1984, sau gần 3 năm cố gắng không ngừng tôi nhận được job kỹ sư. Vài tháng sau được PE License và năm sau nữa được quốc tịch Hoa Kỳ. Đời đẹp như mơ! Khi người Công Dân Mới được giới thiệu với mọi người trong một buổi họp của Division, tôi bồi hồi xúc động chứ không như lúc được phục hồi quyền công dân XHCN.

Bốn năm sau với kinh nghiệm nhiều hơn, tôi bắt được job khác dọn về Arizona làm cho Honeywell Space Systems. Hai cô bé con vẫn chăm chỉ học hành và đều tốt nghiệp đại học. Vợ chồng, con cái sống bình đẳng với mọi người và có công ăn việc làm xứng đáng với khả năng mà không cần cái “đạo đức cách mạng” của cộng sản.

Cũng như chúng tôi, đại đa số người tị nạn và con em của họ đều thành công, không bị xã hội trù dập vì lý lịch 3 đời. Đểu nhất là cộng sản thường hù dân ở bên nhà rằng dân tị nạn bị kỳ thị. Không biết có bao giờ dân ta tự hỏi nếu bị kỳ thị thì tại sao dân tị nạn lại thành công, không những nuôi sống được gia đình mà còn dư dả gởi về giúp đỡ họ hàng? Chắc là có, cho nên ngay đến ngày nay dân Việt vẫn còn tìm mọi cách để thoát khỏi cái “thiên đường” mà một cựu đảng viên cộng sản gọi là "thiên đưòng mù"!

****

Sau hơn 3 thập niên, đảng cộng sản đã làm được gì cho người dân? Chắc chắn là họ đã “thắng lợi vẻ vang” trong sự nghiệp chia rẽ dân tộc, gây nghi ngờ giữa mọi người làm cho không ai tin ai vì sợ đảng trả thù, sợ đến nỗi chỉ dám “chống” khi gần chết, chỉ dám nói ra khi tuổi về chiều như trong “Hồi Ký của Một Thằng Hèn” của Tô Hải.

Oan nghiệt cho các tầng lớp dân chúng trước đây được khoác cho chiếc áo giai cấp “công, nông” nay vẫn hoàn nghèo, thậm chí có người phải “màn trời, chiếu đất” ra ở tại các công viên thành phố để lạy lục cán bộ trả đất, trả nhà! Tội nghiệp cho dân tôi, bị bịt mũi bóp cổ nghẹt thở gần chết, khi được nới lỏng ra một chút thì bị loạn trí cám ơn đảng đã “đổi mới” cho tự do!

Mỉa mai nhất là đảng lại làm gấp trăm ngàn lần những điều mà trước đây họ đã nguyền rủa lên án các chế độ Phong Kiến, Thực Dân Pháp, Đế Quốc Mỹ, và “Ngụy” như là cắt đất dâng cho ngoại bang, xây dựng kinh tế phồn vinh giả tạo, bán rẻ tài nguyên, và nhất là nạn tham quan, ô lại coi dân như nô lệ.

Ba mươi sáu năm sau ngồi nghĩ lại, tôi rất vui sướng đã cùng vợ con ra đi, không dùng dằng như những ngày cuối Tháng Tư năm đó.


dacung CN13
Tháng Tư, 2011


Chú thích:

(1) Cộng sản gọi Việt Nam Cộng Hòa (Miền Nam Việt Nam từ 1954-1975) là Ngụy.
(2) Captain: Quân đội miền Nam gọi là Đại Úy, còn miền Bắc gọi là Thượng Úy.
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Tháng Tư Đen và Đời Đá Vàng

Post by uncle_vinh »

Việt Nam, 37 năm sau ngày thống nhất đất nước
Gia Minh, biên tập viên RFA
2012-04-27

Image
Photo courtesy of nguyenxuandienblog
Người dân Văn Giang trước ngày bị cưỡng chế

Nhiều người dân Việt Nam từng trải qua hai cuộc chiến ‘chống Pháp và chống Mỹ’. Thực dân, đế quốc từng bị cho là kẻ thù tại Việt Nam. Tuy nhiên nay chính những người từng trải qua hai cuộc chiến đó cho rằng nhà cầm quyền hiện nay còn ‘ác hơn cả đế quốc Mỹ’.

Chính quyền sau 75

Cuộc chiến đưa đến chấm dứt tình trạng chia đôi đất nước gần nhất tại Việt Nam chấm dứt cách đây đã 37 năm. Có nhiều ý kiến cho rằng đất nước thay da đổi thịt rất nhiều, và vết thương chiến tranh đã lành lặn.

Tuy vậy, có nhiều người vẫn khẳng định vết thương đó vẫn còn rỉ máu và khi vết thương cũ chưa lành lại có những vết cắt mới trên da thịt người dân.

Suốt những năm tháng chiến tranh, người ta phải đi sơ tán để tránh bom đạn. Khi chấm dứt tiếng súng, họ trở về quê nhà để tạo lập cuộc sống.

Thế rồi những dự án phát triển được vạch ra. Nhiều người nằm trong vùng qui hoạch phải di dời đi nơi khác. Khi tiến hành hoạt động này, biết bao vụ việc do chính quyền các cấp địa phương gây ra khiến dân chúng ta thán.

Hành xử trong khi cưỡng chế thu hồi đất đối với nhiều người dân là một hành động mà họ cho là ‘dã man’ hơn cả thời ‘đế quốc Mỹ’ trước đây.

Một người dân bị mất đất thuật lại câu nói của những đồng bào cùng chung cảnh ngộ:

"Năm 2009, 80 hộ chúng tôi được chủ tịch thành phố, ông Trần Thế Dũng, tiếp. Tôi có ghi băng. Có những người là thương binh đi bộ đội chống Mỹ về phát biểu: lúc phá nhà dã man hơn đế quốc Mỹ, ác hơn đế quốc Mỹ; họ nói đi nói lại ba lần."

Những người phải thốt lên so sánh đó hầu hết là những người từng sinh sống tại những vùng chiến tranh ác liệt trước đây. Hằng ngày họ phải chạy lánh nạn bom đạn do máy bay Mỹ ném xuống. Và chính họ thấy đó là một tội ác khi truy đuổi những người dân như họ.

Trước những hành động xâm lăng đó của người nước ngoài, gia đình nhiều người dân cho con cái tham gia quân đội để đi chiến đấu chống lại những kẻ xâm lược. Có người mất chồng, mất con trong chiến tranh và trở thành gia đình liệt sỹ được tổ quốc ghi công.

Có thể nói trong chiến tranh, khi đất nước bị cho là lâm nguy bởi ngoại xâm, người dân sẵn sàng hy sinh tất cả, đến giọt máu, hơi thở cuối cùng không hề bận tâm suy nghĩ.

Tuy nhiên, khi tài sản, đất đai mà họ sinh sống từ bao đời nay bị xung công một cách thiếu thuyết phục. Tiền bồi thường bị cắt xén, hay thậm chí bị ‘cướp trắng’; thì họ phản ứng.

Nhưng chính quyền đã không nghe tiếng nói của người dân mà đưa lực lượng cưỡng chế đến phá dỡ nhà cửa, ruộng vườn trước sự chứng kiến vô

vọng của họ nên họ không thể ‘hy sinh’ trong im lặng như thời chiến tranh.

Khiếu kiện trong vô vọng

Họ đã phản ứng, đã khiếu kiện từ năm này qua năm khác với hy vọng công lý sẽ được thực thi nhưng rồi họ vẫn mỏi mòn.
Đó là tâm trạng của bà Võ thị Nhiều, gia đình liệt sỹ:

"Tôi có hai con trai đi làm nhiệm vụ Đảng giao, ở với Đảng. Tôi có tội lỗi gì mà đập nhà cửa, tài sản của tôi mà không lập văn bản. Họ còn nhét giẻ vào miệng tôi. Tôi yêu cầu Đảng về sửa lô đất hương hỏa của tôi, làm rõ mọi đường chứ tôi đau khổ lắm."

Hay bức xúc của vợ một thương binh chống Pháp:

"Bây giờ cán bộ của tỉnh đều ‘dã man’, ‘tàn bạo’ lắm, kể cả phường, xóm, kể cả Đảng, kể cả Thanh tra tiếp dân, Hội đồng Nhân dân tỉnh. Họ ‘tàn bạo’ lắm, chẳng kể gì dân đâu. Họ chỉ kiếm lợi cho gia đình họ thôi, chứ gia đình mình họ không quan tâm đến. Theo ý tôi thì những thành phần đó Đảng, Chính phủ, Nhà Nước cần trừng trị đến nơi đến chốn, cho dân ‘ngước mặt lên với’."

Hầu như mọi thủ đoạn có thể sử dụng để buộc dân phải giao đất mà không được bồi thường thỏa đáng đều được sử dụng như câu chuyện của một người mẹ vì con đành phải nhận tiền bồi thường như sau:

"Họ đập phá nhà cửa tôi vào ngày 4/5/2004. Công an, bộ đội, dân quân đến đập 32 mét vuông mái bằng, ‘veranda’, một căn nhà hai gian rồi mọi dụng cụ tôi cho thuê bát đĩa đều bị đập mà không đền bù, cho đến nay. Năm 2011, con tôi học hết cấp 3, đi thi sư phạm, chính quyền không cho con tôi đi với lý do mẹ làm sai không nhận tiền hổ trợ, đền bù. Con tôi về khóc nói chỉ vì mấy triệu đồng mà mẹ không nhận làm ảnh hưởng đến tương lai lâu dài của con. Tôi chết chồng, có bốn đứa con nên tôi thương con nên lấy mấy triệu về hổ trợ chứ không phải bồi thường đất nhà."

Dồn dân vào đường cùng...

Người dân bức xúc tố cáo những thủ đoạn của các cấp chính quyền trong việc thu hồi đất đai của họ, vì nay họ thấy rõ những sai phạm và cách hành xử bất chấp luật pháp của chính quyền:

"Chúng tôi có làm gì mà công an, bộ đội, an ninh đến phá nhà chúng tôi. Quân đội để giữ nước, giữ nhà chứ sao đi phá hoại nhà dân. Chúng tôi đâu làm gì sai trái, đâu có cướp giật, tham ô của ai đâu. Chúng tôi đã đơn từ bao nhiêu năm nay, mà họ dồn chúng tôi vào bước đường cùng, chúng tôi biết làm thế nào?"

Trong chiến tranh sự sang giàu giữa những tầng lớp người dân không rõ nét; nhưng nay khi chấm dứt tiếng súng, bom đạn, các thành phố được xây dựng lại khang trang, các khu công nghiệp, nhà máy mọc lên, đường xá rộng rãi thẳng tắp, thì người ta lại thấy sự cách biệt giàu nghèo quá rõ.

Nhiều người trở nên giàu có nhờ vào những mảnh đất trước đây là ruộng nương, vườn tược hay thậm chí đất ‘chó ăn đá, gà ăn muối’, mà người muốn có thu nhập từ đất phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có được cái ăn.

Người dân mất đất phải tha phương hay ngụ cư trên chính mảnh đất của bao đời cha ông cho đến họ sinh sống. Trước những bất công đó họ chỉ trông chờ vào công lý. Nhưng rồi luật pháp nằm trong tay kẻ mạnh, mà việc khiếu kiện dù có đúng và được trung ương có ý kiến đưa về địa phương giải quyết nhưng rồi như một trái banh, đá qua đá lại, lăn lên lăn xuống. Câu nói từ xưa của dân gian ‘con kiến mà kiện củ khoai’ lại đúng như thời xưa trước.

Bất bình, uất ức, có lúc người dân đã từng hợp lòng đứng dậy như ở Thái Bình hồi năm 1997. Gần đây vào ngày 5 tháng giêng năm 2012, gia đình ông Đoàn Văn Vươn tại Tiên Lãng, Hải Phòng phải nổ súng hoa cải và bình ga tự chế khi lực lượng cưỡng chế tiến vào khu nhà và đất đầm mà họ phải bao năm bỏ công khai khẩn.

Hôm ngày 24 tháng tư vừa qua, người dân tại ba xã Xuân Quan, Phụng Công, Cửu Cao, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên quyết giữ đất không giao cho chủ đầu tư làm khu đô thị sinh thái như được thông báo; nhưng rồi họ cũng bị lực lượng cưỡng chế ủi sạch ruộng vườn.

Thanh tra chính phủ vào đầu tháng tư vừa qua phải lên tiếng thừa nhận là số lượt người và đoàn người khiếu kiện đông người đã tăng hẳn lên. Cụ thể lượt khiếu nại tăng 50% so với tháng 2 và số đoàn đông người tăng 30%. Thanh tra chính phủ thừa nhận có từ 20-25% vụ khiếu kiện là đúng.

Theo Thanh tra chính phủ việc khiếu kiện đã xảy ra từ nhiều năm qua, mà địa phương không giải quyết đến nơi đến chốn, đùn đẩy, né tránh. Tham nhũng đất đai là căn bện mãn tính, và lòng tham đó khiến nhiều quan chức trở thành ‘dã man’ với chính những đồng bào của họ.

Ngày càng có nhiều người quay lưng lại với nỗi khổ đau của những người dân mà họ nhân danh để tiến hành cách mạng. Sự dã man đó được chính người dân mô tả còn hơn cả ‘đế quốc Mỹ’ trước đây.
Post Reply