Viết từ Sài Gòn - Văn Quang

Làm đẹp Diễn Đàn Kỹ Thuật

Moderator: HungNguyen

Post Reply
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Viết từ Sài Gòn - Văn Quang

Post by uncle_vinh »

Gió O phỏng vấn Nhà Văn Văn Quang


Image

Nhà văn Văn Quang sinh năm 1933 tại Thái Bình.

Tốt nghiệp Khóa 4 Sĩ Quan trừ bị Thủ Đức, sau đó phục vụ trong ngành Tâm Lý Chiến. Đã một thời làm Quản Đốc Đài phát thanh Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà. Cấp bậc Trung Tá.

Tác phẩm đã xuất bản: Ngàn Năm Mây Bay, Những Tâm Hồn Nổi Loạn, Nét Môi Cuồng Vọng, Đời Chưa Trang Điểm, Tiếng Gọi Của Đêm Tối, Tiếng Hát Học Trò, Vì Sao Cô Độc, Người Yêu Của Lính... Các phẩm Nguyệṭ Áo Đỏ (1963). Chân Trời Tím (1964) được Liên Ảnh quay thành phim, tạo nên tên tuổi nhà văn ở Miền Nam thời bấy giờ.

Sau tháng 4 năm 1975, ông trải qua nhiều năm tù ở K 5 Vĩnh Phú và K 2 thuộc Z 30 tại Hàm Tân. Ra khỏi tù Văn Quang không tị nạn sang Hoa Kỳ theo diện HO như hầu hết các tù nhân chính trị khác. Năm 2002, ông rời bỏ Sài Gòn và dọn lên Lộc Ninh sinh sống. Ở đấy hàng tuần, Văn Quang cho ra loạt ký sự "Lẩm Cẩm Saigòn Thiên Hạ Sự", và chỉ gửi ra cho các báo Việt Nam ở hải ngoại. Loạt bài này rất được độc giả hải ngoại ưu ái đón nhận.


Lê Thị Huệ: Ông có thể mô tả cho độc giả gio-o nghe về nơi chốn ông đang làm việc. Có máy computer, có internet, có cây xanh đất đỏ mùi quê, cảm xúc cô độc và không cô độc ?

Văn Quang:
Trước khi quyết định chọn một nơi nào đó làm chỗ sinh sống, chắc chắn người nào cũng phải cân nhắc xem nơi đó có những điều kiện gì, có thích hợp với cuộc sống và công việc của mình không. Tôi cũng phải làm như thế. Khi tôi đến Lộc Ninh, được dẫn vào một khu nhà vườn cách thị trấn 3 cây số, ở đây đã có điện, nước, có đường truyền internet rồi. Đó là 3 điều kiện đáp ứng được nhu cầu của tôi. Thứ đến là điều kiện an ninh như thế nào. Sau cùng là khung cảnh yên tĩnh, bởi nơi này một nửa là thôn ấp, một nửa là vùng đồi núi. Song, tất cả lại phải tùy thuộc vào giá cả. Vậy nên nó trở thành yếu tố quan trọng hàng đầu. Tôi đã đi xem đất ở một số thị trấn như Long Khánh, Chơn Thành… cuối cùng kết luận là không nơi nào có giá đất vườn rẻ hơn Lộc Ninh.

Ở ngay thị trấn LN, giá đất khá cao, tôi lui vào xã Lộc Thái, một nơi “nhà không số, phố không tên”. Tuy nhiên đã có sẵn con đường làng, trải nhựa, dẫn vào tận nhà, có đèn đường, có điện, xài nước giếng khoan. Đường truyền internet hồi đó là dial up chạy tành tạch, chậm, nhưng vẫn có thể làm việc được. Cách đây một năm mới có đường dây ADSL khá nhanh, nhưng có lẽ chỉ mắc đến xã của tôi ở là xa nhất so với khu trung tâm thị trấn.

Căn nhà vườn này của người chủ cũ, trồng tiêu lâu ngày, nay con cái lớn nên muốn về Sài Gòn cho con đi học. Vả lại trồng tiêu cũng không còn có lời như xưa nữa nên họ bán lại toàn bộ diện tích nhà vườn với 5.400m2. Trong đó có sẵn một số cây ăn trái, một cái nhà gỗ, dụng cụ làm vườn, bơm nước… Nếu mua có thể ở và khai thác ngay. Giá cả lại rất rẻ. Tất cả 165 triệu đồng VN (10 ngàn USD).

Đến nay, giá đất ở thôn xã này cũng không đắt hơn bao nhiêu. Nhưng theo tôi biết, giá đất vườn ở đây rẻ hơn tất cả những nơi khác. Nếu Gio-O muốn mua, hoặc bất cứ độc giả nào muốn mua, tôi xin tìm giùm, cam đoan không biết làm “cò”, không mất hoa hồng, tôi chỉ muốn thông báo tin này và muốn có thêm hàng xóm cũng như mình. Tuy nhiên cũng cần nói thêm là nơi này chỉ thích hợp cho những vị muốn “dưỡng già”, muốn tìm một chỗ yên tĩnh, an ninh, thảnh thơi. Hầu như không thể làm ăn buôn bán gì được. Nhưng nhà vườn thì không bao giờ chết đói và cũng chẳng bao giờ giàu được. Cuộc sống thanh đạm, yên bình.

Lộc Ninh là một thị trấn bị bao vây bởi những lô cao sư từ xa xưa, hiện nay chưa phát triển được hoặc không thể phát triển được, nên cũng rất ít tệ nạn xã hội. Không thể nói không có trộm cắp, nhưng rất ít và cũng không có những vụ thanh toán ly kỳ. Hơn 2 năm nay, tôi chưa hề thấy một vụ “trấn lột” giữa đường nào như ở các thị trấn phát triển ồ ạt khác. Cứ 7 giờ tối là con đường trước mặt nhà tôi không còn ai qua lại, không một tiếng xe, không một tiếng người. Khoảng 9 giờ tối là thôn xóm vắng ngắt, mọi nhà tắt đèn ngủ sớm, cứ như khuya khoắt lắm rồi, chỉ có những ngọn đèn đường còn thức với những vườn cây, ao cá um tùm ngút ngàn.

Nghe thì có vẻ như xa lắm, nhưng thật ra Lộc Ninh cách Sài Gòn 123 cây số - vừa bằng đường ra Vũng Tàu. Nếu đường sửa xong, đi xe hơi chỉ mất khoảng 2 giờ. Hiện nay, Quốc lộ 13 đang sửa nên từ Sài Gòn đi, khoảng 3 tiếng là đến nơi.

Có 2 lý do chính tôi chọn Lộc Ninh

Thứ nhất: Ngoài yếu tố tất nhiên là giá đất rất rẻ như tôi đã nói ở trên. Với số tuổi của tôi, không còn thích hợp với đời sống ở thành phố nữa. Cái chung cư tôi ở Sài Gòn, như cái tổ chim, suốt ngày ồn ào, ngột ngạt, ô nhiễm năng nề. Làm việc chừng vài tiếng đã thấy mỏi mệt, rã rời, đầu nhức, mắt hoa. Thuốc nhức đầu, cảm cúm như cơm bữa đối với tôi. Do đó tôi quyết định phải chọn một vùng quê yên tĩnh cho cuối đời. Cái khúc quanh này trong cuộc sống quả là có khó khăn, quyết định thực hiện được với mỗi người không dễ dàng. Song tôi vẫn phải cố gắng vượt qua nó như đã từng vượt qua những khó khăn hơn thế. Lần này thì dễ dàng hơn vì nhà chỉ có 2 người, bàn bạc với nhau là xong. Tôi cũng xin nói thêm là nhờ bạn bè giúp đỡ khá nhiều, con cháu tôi cũng góp phần cho tôi có đủ điều kiện thực hiện ước muốn. “Rách” như ông Hoàng Ngọc Liên hồi đó cũng “khuyến khích” tôi bằng 1000 USD, bố con ông Tạ Quang Khôi, Vũ Đức Vinh, Hà Túc Đạo, Nhất Giang, Vi Túy, Hồ Ông, Lê Thị Kim, Bạch Quyên, Hồng Oanh cũng góp phần không nhỏ cho tôi “về nhà mới”. Hầu như tất cả những tiện nghi trong nhà tôi ở đây đều do bạn bè tặng.

Thứ hai: Tôi vẫn nghĩ: một nhà văn, nhà báo, phải biết “làm mới mình”. Ở thành phố mãi, đề tài quen thuộc sẽ cùn dần. Quay đi quay lại “nó vẫn thế”. Về nhà quê, có lẽ là cách tốt nhất để “làm mới” mình. Nơi này từ năm1972, người dân Lộc Ninh đã sống trong vùng được gọi là “giải phóng”, nói thẳng ra là họ sống trong vùng của miền Bắc kiểm soát nhiều hơn, dưới cái tên “Mặït trận Giải Phóng miền Nam”. Bên cạnh đó là chiến trường đẫm máu An Lộc, Bình Long năm 75 và những vùng nghèo khó, giáp ranh biên giới Campuchia… Tôi có thể tìm hiểu được thực chất đời sống cùng tâm tư của họ. Người dân quê đã mất gì, được gì, từ năm 1975 đến nay? Đích thực họ nghĩ gì, làm gì, hy vọng gì? Những biến chuyển sâu sắc nhất trong từng gia đình như thế nào? Từ đó so sánh với cuộc sống ở những thành phố, từ đó tìm biết được những mảnh đời khác với những gì tôi đã biết. Từ đó cho tôi một cái nhìn sâu hơn, xa hơn, thật hơn, về toàn bộ những gì dân tộc mình qua những triều đại mà tôi đã sống.

Còn nói về sự cô đơn: Phải thú nhận rằng đôi khi cũng cảm thấy thiếu trò giải trí chứ chưa hẳn là cô đơn. Ở đây không có một thú vui nào, không có một phòng trà ca nhạc, không có một tiệm karaoke và cũng chẳng có một quán cà phê có nhiều “bóng hồng chiều chuộng”. Hàng xóm toàn là những ông già, chất phác, chân thật, năm thì mười họa mới sang nhà nhau một lần. Đôi khi gặp nhau trong một đám hiếu hỷ, chuyện trò rôm rả, nhưng toàn là thứ chuyện mình mù tịt. Ngồi im mà học cách họ chăm bón cây ăn trái, mỗi cây có một cách chăm sóc riêng. Muốn có một cây đu đủ đực thì phải làm thế nào. Muốn dừa ngọt thì phải làm gì… Đại khái như thế.

Tuy nhiên, đôi khi lại thấy thích thú vì sự cô đơn ấy. Được “tự do” suy nghĩ cả buổi mà không ai thèm nói với mình câu nào. Và để làm dịu bớt cô đơn, nhớ bạn bè hoặc có bạn bè, con cái từ nước ngoài về thăm, tặng quà cho anh em TPB VNCH thì lại lên xe đò về Sài Gòn một vài ngày, hoặc nếu muốn, có thể sáng đi chiều về cũng chẳng sao. Ở đây có loại xe đưa đón tận nhà, giá chỉ có 50 ngàn đồng VN một lượt. Hoặc ngồi buồn, gọi điện thoại qua internet nói chuyện với các ông bạn ở Mỹ, ở Canada, ở Úc… nhanh như điện thoại di động, rõ và rẻ hơn di động. 60 ngàn đồng VN, nói chuyện được 200 phút. Có khi cả tháng tôi chưa dùng hết một card điện thoại internet. Trong hơn 2 năm qua, bạn bè và con cháu tôi từ nước ngoài về VN, lên chơi Lộc Ninh cũng khá nhiều. Như thế thì không còn cô đơn nữa và luôn quyết định được thời gian của mình.

Tôi nghĩ “quỹ thời gian” của mình cũng chẳng còn nhiều. Một người bạn tôi, anh Nguyễn Đình Toàn, từ Cali về chơi, nói đùa “nhà này chỉ còn thiếu bốn chữ “Văn Quang chi mộ” nữa là hoàn hảo. Tôi nghĩ ngày đó có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Vui vẻ chấp nhận nó với cuộc sống hiện tại.

Image

Lê Thị Huệ: Tại sao ông lại chọn lối viết "Lẩm Cẩm Sài Gòn Thiên Hạ Sự" . Qua cách viết này, ông viết rất sung sức, rất khoẻ, rất bén nhạy. Tại sao ông không chọn lối sáng tác tiểu thuyết như trước 1975

Văn Quang: Về câu hỏi thứ hai, tôi chọn lối viết “lẩm cẩm Sài Gòn thiên hạ sự” bởi mỗi đề tài, tôi chọn một lối viết khác để độc giả dễ dàng chia sẻ những cảm xúc, những ý tưởng của mình. Trước đây tôi cũng thường viết nhiều loại. Tiểu thuyết, tiểu thuyết phóng sự, phóng sự, truyện ngắn. Tiểu thuyết để diễn tả những đề tài về nội tâm, sâu sắc hơn, về tính thời đại chứ không phải thời sự. Tính thời đại có thể nói về những sự việc, những tâm trạng, những hình ảnh cách đó 5- 10 năm. Nhưng thời sự thì chỉ diễn tả những sự kiện xảy ra gần nhất trong tuần hoặc trong tháng.

“Lẩm cẩm” là một lối viết có tính thời sự. Bởi tính cách “đặc thù” của thời hiện tại nơi tôi đang sống, nên buộc phải viết theo một cách nào đó để không bị gây phiền lụy. Tôi “xông” vào những đề tài xã hội “nóng” nhất, có tính điển hình nhất mà người dân đang chú ý. Một nhu cầu khác nữa là hướng đến độc giả hải ngoại, đang quan tâm tới điều gì? Nói cho rõ hơn, Việt kiều của chúng ta đang muốn biết điều gì đang xảy ra tại quê hương mình. Chắc ai cũng muốn có những thông tin chính xác, không bị vo tròn bóp méo bởi bất cứ lý do nào, đôi khi chỉ là sự “tam sao thất bản” nên thông tin thiếu độ trung thực. Tôi chọn lọc những sự kiện ấy, tìm kiếm thông tin chi tiết và làm thế nào càng chính xác được càng tốt. Nó không phải là một bản tin thuần túy mà đưa vào những nhận định, quan điểm của riêng mình như một lời bàn bạc, nói chuyện với độc giả một cách bình thường chứ không là lý luận. Từ đó bạn đọc có thể hiểu rõ vấn đề hơn và có thể suy luận, nhận định riêng. Do đó, người ở xa quê hương, vẫn có thể biết rõ những sự việc xảy ra tại quê nhà.

Tuy nhiên như chị đã thấy, “lẩm cẩm Sài Gòn” không chỉ là những chuyện lẩm cẩm. Nó có cả những mặt trái, mặt phải của xã hội, chuyện khôi hài và chuyện đau thương, những bản tường trình thẳng thắn vượt qua mọi áp lực. Miễn là chuyện xảy ra có thật. Cái nhìn xoáy về phía sau những sự việc đã và đang xảy ra chứ không phải chỉ có “bề mặt” sự việc, tôi nghĩ đó mới thực sự cần thiết cho bạn đọc ở nước ngoài vốn không có nhiều thì giờ theo dõi.

Tóm lại, “lẩm cẩm Sài Gòn thiên hạ sự”, nếu tổng kết lại, nó sẽ là một bức tranh toàn cảnh của xã hội tôi đang sống. Nó phản ảnh được trung thực mọi vấn đề ở bề mặt đời sống của người dân thuộc đủ mọi tầng lớp xã hội. Từ một anh nông dân “lừa được cả nước” đến một đại gia lương thiện và bất luơng, từ lớp thanh niên đến các quan chức, từ cô gái tỉnh lẻ đến các cô gái chân dài thành thị. Từ nỗi đau thương cơ cực của “những người bị bỏ quên” như anh em thương phế binh VNCH đến những cảnh trác táng cùng cực, hoang phí vô cùng của lớp người ăn trên ngồi trước… Cái khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, những điều phi lý bất công, những điều cần nói mà người dân không nói được…

Tất nhiên, trong hoàn cảnh của tôi, có những hạn chế mà ai cũng hiểu được. Cho nên viết và “lách” vẫn là điều phải nghĩ tới. Tôi làm cái gì mà luật không cho phép cũng không cấm. Tôi làm với lương tâm của một người cầm bút. Dù ở đây chẳng ai công nhận, tôi vẫn là người cầm bút. Người làm báo có thẻ làm báo, nhưng tôi chẳng có gì ngoài những tìm tòi của mình, tự mình lựa chọn thông tin. Còn những “rủi ro” bao giờ tới và tới lúc nào, đành chấp nhận như một số phận an bài. Nếu cứ nghĩ tới những thứ đó thì chẳng làm được việc gì đáng làm. Tôi không tham gia bất kỳ tổ chức nào, tôi không thích “làm chính trị” như bản tính tôi từ xưa tới nay. Tôi chỉ biết cầm bút, độc lập và hành xử theo tiếng gọi của lương tri.

Mặt khác, tôi cũng không quên viết tiểu thuyết hoặc tiểu thuyết phóng sự. Tiểu thuyết tôi dành cho những đề tài thuộc về tâm tư, tình cảm sâu sắc hơn. Như “chân trời tím” trước những năm 75 và sau khi đi tù cải tạo về, tôi đã hoàn thành “Ngã tư hoàng hôn” vào năm 1990. Đó là một thời kỳ “nửa đóng nửa mở” cánh cửa sắt. Hoặc trước kia, phóng sự tiểu thuyết “những ngày hoa mộng” đăng trên báo Kịch Ảnh, “Sài Gòn tốc” đăng trên nhật báo Chính Luận những năm 60-70. Gần đây nhất là tiểu thuyết phóng sự “Lên đời” về “mặt nổi” những khung cảnh nháo nhác giữa Sài Gòn - Hà Nội của cái cảnh “đổi đời” rất đặc trưng của những nhà “tư sản mới” trong xã hội Việt Nam. Nó được hình thành như thế nào, bắt đầu từ đâu và sự cấu kết “thâm cung bí sử” cùng với cánh giang hồ khét tiếng một thời. Tôi nghĩ đó cũng là hình ảnh sống động nhất của một giai đoạn lịch sử trong xã hội Việt Nam. Đó là “thiên chức” của người cầm bút, chứ không phải viết lia viết lịa, viết “văng tê bạt mạng” mà chẳng nói được điều gì đáng nói.

Có những đề tài trong phạm vi cuộc sống tâm tư, tình cảm của những thành thị cũng như nông thôn, tôi dành để viết tiểu thuyết. Như một cô gái tỉnh lẻ trong thời đại này đã và đang sống như thế nào, ước vọng thầm kín nhất của họ là gì? Tiến tới một “xã hội công bằng giàu đẹp” như khẩu hiệu hay một cái gì khác? Lớp “đại gia” và lớp nông dân khác nhau như thế nào? Cái khoảng cách giữa thành thị và nông thôn ước chừng bao xa? Nền kinh tế phát triển mang lại lợi ích thiết thực gì cho mọi con người. Cái gì đang phá sản và cái mới đang hình thành trong con người như thế nào? Trước hết phải là trong tận cùng ý thức, nó có tính quyết định cho toàn xã hội. Nếu không mọi sự chỉ là giả tạo. Vấn đề khá tế nhị và sâu sắc nên tôi viết tiểu thuyết hoặc tiểu thuyết phóng sự là thích hợp. Thật ra đề tài tôi đang hướng tới là sự tiếp nối của “lên đời”, nhưng chú trọng vào chiều sâu. Nhiều độc giả cho tôi biết “lên đời” vẫn còn thiếu một cái gì đó, chưa tròn vai. Nhận xét đó rất đúng. Đó cũng là dụng ý của tôi. Một cuốn truyện đã lên tới 100 kỳ, hơn 1500 trang A4, đã là quá dài. Đề tài sẽ tiếp tục dưới một dạng khác. Có thể ví von như “Lên Đời” chỉ là cái áo mới của cô dâu, cái “mặt nổi” của thời cuộc. Tiểu thuyết tiếp theo sau là những rung động, những biến chuyển tâm lý của sự thay đổi từ đêm tân hôn và trở thành thiếu phụ.. Nhưng quá bận rộn với những công việc khác nên chỉ có thể hoàn thành trong một vài tháng sắp tới.

Tôi hy vọng trả lời như thế cũng là tạm đầy đủ cho những điều độc giả Gio- O muốn biết về cách viết của tôi. Mỗi đề tài thích hợp với một lối diễn tả. “Lẩm Cẩm” là một tổng hợp về những tin tức thời sự “nóng”, những điều trông thấy và những dư luận cùng quan điểm của người viết. Làm thế nào để người đọc dễ dàng chia sẻ được với những gì mình muốn nói.

Lê Thị Huệ: Hình như trước 1975, ông chuyên viết "phơi tông" cho các báo Sài Gòn.

Văn Quang:
Đúng là những năm trước 1975, tôi thường xuyên viết feuilleton cho các nhật báo và tuần báo ở Sài Gòn như tôi đã trả lời ở phần trên.

Lê Thị Huệ: Những tiểu thuyết của ông ngày trước có những cái tên rất lãng đãng như "Nguyệt Áo Đỏ", "Chân Trời Tím", "Tiếng Hát Học Trò", tại sao ông lại thích đặt những cái tựa như thế

Văn Quang: Những cái tên … lãng đãng như “Chân trời tím”, “Tiếng hát học trò”, “Nguyệt áo đỏ…” như chị hỏi, bởi hồi đó tôi còn trẻ, và bây giờ nhìn lại cũng thấy… hơi ngây thơ, mơ mộng nên nó “lãng đãng” như chính cái tên tiểu thuyết vậy. Mỗi lần đặt tên cho một cuốn tiểu thuyết hoặc bất kỳ một truyện nào của mình cũng không giản gị đâu. Làm sao cho “nó” thể hiện đúng đề tài mà không “khô cứng” như một cuốn lý luận, không sa đà, không gây “sốc”. Tôi chắc nhiều nhà văn cũng gặp tình cảnh này. Có khi nghĩ nát óc cũng chẳng ra, có khi bỗng dưng nó “bật” ra lúc nào không hay. Cũng như lúc này, cuốn tiểu thuyết tôi đang viết cứ “dùng dằng nửa ở nửa về” với những cái tên. Thí dụ “phá sản” thì quá “khô” và cứ như có màu sắc “chính trị chính em”, cái tên “cô gái tỉnh lẻ” lại có vẻ “lãng đãng” như chị nói và không phản ảnh được bao quát vấn đề muốn diễn tả. Tôi muốn lấy hình ảnh về những thăng trầm, biến chuyển của cuộc đời một cô gái tỉnh lẻ đến những hoạt động về nhiều mặt của nhân vật làm tượng trưng cho những vấn đề xã hội “nóng nhất” đang diễn ra công khai hoặc âm thầm. Thật ra những con người đó là đa số trong xã hội bây giờ, là hơi thở của thời đại. Tên truyện chỉ là phụ, song không kém phần quan trọng. Tìm được một cái tên truyện thật khó khăn đối với tôi. Thú thật là có khi phải tạm bằng lòng với cái tên chưa hoàn toàn thích thú.

Lê Thị Huệ: Ông bị đi tù một thời gian dài sau 1975. Ông có thể nói gì về điều này ở đây và bây giờ chăng ?

Văn Quang: Có rất nhiều điều đáng nói về những ngày tháng trong nhà tù. Và cũng đã có rất nhiều những cuốn sách viết về chuyện này rồi. Nhiều chi tiết đã được trình bày cụ thể. Vì thế, lúc này tôi nghĩ ở vào vị trí của tôi, nên chuyên tâm về những vấn đề xã hội hiện tại mà tôi đang có điều kiện tìm hiểu tường tận hơn các bạn khác. Tôi chỉ có thể nói là nhà tù vẫn là nhà tù, không có chuyện cải tạo gì ở đây. Điều này tôi cũng đã viết trong “ngã tư hoàng hôn”. Một lúc nào đó, nếu còn thì giờ, có thể tôi sẽ viết lại toàn bộ những sự thật mà tôi đã được chứng kiến.

Lê Thị Huệ: Ông từng là nhà văn quân đội ở Miền Nam, ông có so sánh nào cho nền văn chương quân đội của hai miền Nam Bắc trong thời chiến?

Văn Quang:
Nói về văn chương quân đội giữa hai miền Nam Bắc có lẽ hơi quá tổng quát. Nhưng sự khác biệt căn bản vẫn là mang tính văn học nói chung. Một bên, dù anh là thành phần nào khi hoạt động văn hóa đều phải đi theo một đường lối chung, không thể khác được. Do đó người viết dù ở trong hay ngoài quân đội cũng thế thôi. Họ quan niệm văn hóa là tuyên truyền giáo dục quần chúng nhân dân (trong đó có cả quân đội) thực hiện một chủ trương chính sách trong một giai đoạn nào đó. Còn ở miền Nam thì những nhà văn quân đội không bị lệ thuộc bởi bất cứ điều gì. Tôi làm ở Tổng cục chiến tranh chính trị rất lâu, nhưng chưa hề thấy một “chỉ thị” nào cho những quân nhân viết văn. Họ được tự do sáng tác theo cảm hứng của mình về mọi mặt trong đời sống. Những nhà văn xuất thân từ quân đội hay hơn nữa là từ những chiến trường như Nguyễn Đạt Thịnh, Phan Nhật Nam, Huy Phương, Thế Hoài, Phạm Huấn… viết những gì họ đã trải qua. Hoặc như Mai Trung Tĩnh, Vương Đức Lệ, Tô Thùy Yên, Cung Trầm Tưởng cứ việc làm thơ tình, lãng mạn, không cần Tây Tiến hay Nam Tiến. Cho nên so sánh hai nền văn hóa quân đội giữa hai miền như thế tôi cho là khập khiễng, nên tôi không thể so sánh được.

Lê Thị Huệ: Ông đã từng tiểu thuyết hoá dày cộm những người lính thành phố Sài Gòn trước 1975. Bây giờ nhìn lại ông có thấy là trật búa hay OK ?


Văn Quang:
Tiểu thuyết hóa những người lính không phải là “thần thánh hóa” những người lính. Chị đọc lại “Chân trời tím” và “Người yêu của lính” sẽ thấy tôi tiểu thuyết hoá đời thường của họ. Người lính không đi tu, không là “người con trai khác với những người con trai không đi lính”. Ngoài cuộc sống chiến đấu, ngoài tình đồng đội, họ có cuộc sống của mình. Cũng yêu thương, ghen hờn, lãng mạn như những ghệ sĩ chính hiệu. Nói cách khác, tôi diễn tả rõ hơn, tỉ mỉ hơn về cuộc đời quân ngũ. Không phải tất cả đều tình nguyện đi lính, có những người “bị động viên” hoặc được đồng hóa. Nhưng tình đồng đội đã làm họ thay đổi quan niệm, ý chí chiến đấu đã tô đậm lý tưởng yêu nước của họ. Vì thế họ trở thành một khối vững chắc cho đến tận ngày nay. Tại sao tôi lại thấy “trật búa” được? Tôi vẫn cho là tôi đã làm đúng, làm được những gì tôi cần làm. Một điều cần nhấn mạnh, đó là xuất phát từ những rung động chân thành của tôi sau những ngày tháng làm phóng viên thời kỳ chiến tranh ác liệt đầu tiên, qua một số chiến trường thời đó, không vì một chỉ thị nào, một lý do chính trị nào.

Lê Thị Huệ: Nếu cuộc đời biến thành những chương tiểu thuyết. Hãy thử nói về cuộc đời như là những chương tiểu thuyết. Cái chết nào cũng là một cái chết. Cái chết của Miền Nam là một cái chết tức tưởi nhưng nó có cái đẹp tuyệt vời của một cái chết tức tưởi. Ông nghĩ đấy là một bất hạnh hay là một may mắn

Văn Quang: Cái chết của miền Nam, như chị nói, tôi đã có nhiều thời gian gậm nhấm nó trong tù và ngoài đời, sau khi ở nhà tù ra. Tôi thường nghĩ, chẳng ai muốn tự tử cả. Cái chết bất đắc dĩ được báo trước đó không do miền Nam tạo ra. Người bạn “đồng minh thân thiết” của chúng tôi bỏ bạn, trong khi đối phương có tới 6 nước vẫn trung thành tiếp súng đạn thì “sáu thằng đánh một chẳng chột cũng què”. Và những “panic” từ Huế đến Pleiku, Đà Nẵng, Nha Trang, Bình thuận vào đến TP. Sài Gòn đều do người bạn đồng minh của chúng tôi tạo ra. Gây hoảng loạn khắp nơi để tẩu thoát như một ván cờ thua. Điều đó rõ như ban ngày. Tôi so sánh với cuộc rút lui của quân đội Pháp sau khi ký hiệp định Geneve, dù sao thì mọi tổ chức cũng chu đáo hơn, có tình có lý hơn, nhân đạo hơn. Nếu người Mỹ vẫn tuyên truyền rằng “cộng sản chiếm được miền Nam thì Sài Gòn sẽ là một biển máu”. Vậy mà họ đã để lại chúng tôi bơi trong cái biển máu ấy, sau khi bí mật bắt tay đối phương. Có thể coi họ là đồng minh được không?

Vậy thì cái chết của miền Nam chỉ có thể coi là bất hạnh. Một kinh nghiệm cho những ai còn nuôi mộng lãnh đạo đất nước này.

Lê Thị Huệ: So sánh đời sống của ông bây giờ với đời sống trước năm 1975, ông phát biểu như thế nào. Tôi hỏi ông câu này với một thái độ rất trân trọng, vì ông là một tác giả hiếm hoi, ông sống sót và sống qua những giai đoạn khốc liệt ấy, mà vẫn viết với cái tên Văn Quang. Một Văn Quang lừng lững không thoả hiệp. Hình như ông là 1 tác giả độc nhất vô nhị viết và viết được trong cái thế sống vô cùng chênh vênh ấy

Văn Quang: Thật ra ngay từ đầu, khi trả lời lá thư của Gio-O tôi đã thành thật thưa rằng “không thích nói về mình”. Nếu cần nói thì có rất nhiều điều phải nói, phải trả lời. Một người cầm bút nên để độc giả phán xét về mình hơn là những gì mình tự nói hoặc bị kẻ thù xuyên tạc.

Xin cảm ơn về những nhận xét của Gio-O dành cho riêng tôi. Vâng, tôi sống như vậy đấy. Chẳng có gì phải che giấu, chẳng có gì phải khiếp sợ nữa. Còn gì nữa đâu mà khiếp sợ và tôi không làm điếu gì xấu, không “phá hoại”… thì cứ lừng lững mà làm. “Danh chính ngôn thuận” và “đường ta ta cứ đi”. Cái gì có thật thì tôi viết. Không bới móc lung tung, không phao tin đồn nhảm. Quyền phê phán là của người dân. Quyền bất bình cũng là của người dân về những điều có thật đã và đang xảy ra.

Cũng có một số người viết như tôi đang có mặt ở miền Nam như Nguyễn Thụy Long, Đoàn Dự, Hàm Anh… và một số người không ký tên rõ rệt như người Tân Định, Người Sài Gòn… Và còn cả những người viết không thường xuyên, thỉnh thoảng mới có một vài bài. Những anh em đó cũng là những cây bút hoàn toàn độc lập. Mỗi người có một cách viết, cách lựa chọn đền tài và mức độ khác nhau. Chúng tôi có gặp nhau như những người bạn bình thường, nhưng không thảo luận về những gì mình sẽ viết. Do đó đôi khi có những đề tài trùng hợp, song mỗi người nhìn theo quan điểm của riêng mình. Được độc giả đón nhận như thế nào lại là chuyện khác. Có cố gắng tìm cách “ngoi lên” cũng chẳng được. Cách tốt hơn hết là cứ thành thật với chính mình, cứ thảnh thơi mà làm được việc mình muốn làm. Như tôi đã nói ở trên, sẵn sàng chấp nhận điều “rủi ro” sẽ đến vào bất kỳ lúc nào. Chấp nhận cả đòn hiểm của kẻ thù, của những kẻ đố kỵ, ghen ghét sảng. Cứ lo nghĩ đến nó thì thà xếp quách computer lại hoặc chỉ để ngồi chơi games, chơi “meo” cho xong. Xin tiền con hay đi đánh vi tính, làm lay-out thuê cũng đủ sống.

Có thể nói tôi đã tập được thói quen, không còn ngồi đó tiếc nuối dĩ vãng. Thời gian không bao giờ trở lại được. Tôi bằng lòng và thích ứng với những gì tôi đang có. Trước kia sống sung sướng hay bây giờ, tôi cũng chẳng biết nữa. Một điều đáng nói là không thể quên những người bạn cũ, dù còn sống ở bên kia hay đã mất. Đôi lúc ngơ ngẩn chỉ vì những thứ đó thôi.

Lê Thị Huệ: Một cách công bằng, ông có nhận xét gì về nền sáng tác Miền Nam 1955-1975.

Văn Quang: Về những sáng tác từ ở miền Nam từ 55-đến 75, tôi cho đó là thời kỳ sung sức nhất của những sáng tác của văn học Việt Nam từ trước tới nay. Kể cả về số chất lượng cũng như chất lượng, những vị đàn anh lớn tuổi cũng như những nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, ca sĩ… mới xuất hiện. Một số tác phẩm văn học khổng lồ đã được trình diện, một số báo chí về mọi mặt từ trình độ cao đến bình dân đua nhau tự do cạnh tranh. Một số ca khúc trở thành “bất tử” dù cho nó đã bị khai tử nhiều lần. Cho đến bây giờ ở Việt Nam, rất nhiều tác phẩm từ thời đó vẫn còn nguyên giá trị, nó xuyên suốt qua mọi thời đại. Độc giả, khán thính giả từ thành thị tới thôn quê vẫn thưởng thức những món ăn tinh thần đó, chẳng cần ai khuyến khích, khuyến mãi.

Cách công bằng nhất để nhận định thì nhãy nhìn vào thị trường, nhìn vào sự trân trọng của người dân.

Mặt khác, việc xuất bản những tác phẩm văn học nghệ thuật hồi đó hình thành một trật tự hơn bây giờ. Kể cả sách xuất bản ở nước ngoài cũng như ở trong nước. Hầu như bây giờ, một số tác phẩm không còn mang đúng giá trị đúng như văn học định nghĩa. Nó là sách lam nham, ai có tiền thì cứ in. Vàng thau lẫn lộn, trong đó có những cuốn không đáng gọi là sách, có những bài không đáng gọi là bài. Điều này rất có hại cho những người trẻ tuổi, nhất là lớp mới lớn ở nước ngoài. Nếu đọc một cuốn sách lem nhem như thế họ sẽ nghĩ gì về những tác phẩm khác của ông cha, của những người đi trước?

Vì thế nên tôi vẫn cho rằng 20 năm văn học miền Nam 55-75 có nhiều tác phẩm giá trị hơn, dù cho có những tác phẩm chỉ có giá trị trong từng thời kỳ.

Lê Thị Huệ: Nhà văn Văn Quang, Giám đốc đài phát thanh Quân Đội, viết tiểu thuyết Chân Trời Tím, đi cải tạo mút mùa lệ thủy, không đi Mỹ theo diện HO (mà những người như Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên còn không cưỡng lại sự tự do ở chân trời kia), còn Văn Quang không đi. Ở lại Việt Nam. Văn Quang là ai thế?

Văn Quang: Tôi vẫn cho rằng những người bạn tôi đi định cư hầu hết vì lo cho tương lai của con cái, cho cuộc sống gia đình hơn lo cho chính bản thân mình. Họ có lý do chính đáng để ra đi. Còn tôi, hầu như chẳng có lý do gì cả. Khi tôi ở trại tù ra, các con tôi đều đã định cư ở Mỹ, đi theo “diện vượt biên” và đi học ở Mỹ trước năm 75. Chỉ còn lại mình tôi. Đời sống kinh tế cũng lại bắt đầu ổn định, bằng việc học computer rồi ra “hành nghề” đánh vi tính thuê và làm lay-out cho các tiệm sách báo. Những nhà xuất bản tư nhân, những nhà làm quảng cáo chuyên nghiệp và cả những ông làm “báo lẻ” như Thanh Thương Hoàng, Thái Phương cũng đều thuê “công ty gia đình” của tôi làm hết. Hồi đó Sài Gòn chỉ có rất ít computer và người làm được công việc này càng hiếm. Cái may mắn của tôi là ngay khi ở trại tù ra, tôi đã tò mò đi học khóa computer đầu tiên vào những năm1989-90-91. Kể về chuyện đi học computer của tôi chẳng qua cũng là chuyện “bất đắc dĩ” và khá dài dòng, cười ra nước mắt. Tôi sẽ kể lại vào một dịp khác. Sau khi học xong vài khóa, tôi đã được các cháu ở Mỹ yểm trợ cho mấy cái computer và máy in laser để hành nghề. Công việc kiếm ăn khá phát đạt. Vì thế tôi thấy không cần phải đi đâu nữa cả. Hơn thế, bà xã của tôi và các cháu cũng đã “yên bề gia thất” nên tôi không muốn khuấy động cuộc sống của gia đình mình, gây thêm những thắc mắc vướng bận cho những người thân.

Ở đây cũng còn một số anh em sĩ quan cũ, sau khi ở tù ra rồi, cũng không đi theo diện HO. Dường như vấn đề kinh tế quyết định tất cả. Hầu hết những người ở lại đều có một cuộc sống tương đối ổn định hoặc có những trở ngại về gia đình, như con cái có vợ có chồng rồi không được đi theo… Mỗi người một hoàn cảnh.

Mặt khác, tôi nghĩ anh em ra đi nhiều rồi, tôi muốn ở lại để chứng kiến cho hết, cho đầy đủ những đổi thay. Đời sống lúc đó ở đây bấp bênh, rồi chao đảo vì Liên Xô tan rã, vì Đông Âu lập lờ… Cuộc sống “lên voi, xuống chó” quay quắt, nếu nhìn như một kẻ ngoài cuộc, nó sinh động hơn một sân khấu với đầy đủ bi hài kịch thú vị. Có quá nhiều đề tài mới lạ cho mình ghi nhận. Làm một nhân chứng sống có lẽ hay hơn. Và cũng vì sự “gậm nhấm” của tôi về “người bạn đồng minh” nên tôi quyết định ở lại.

Mãi tới sau này, một số không ít những người bạn tôi cho rằng tôi đã lựa chọn đúng. Riêng tôi, cho là một điều may mắn chứ chẳng ai tiên đoán trước được điều gì sẽ xảy ra. Nhưng nếu có sai, có bất cứ điều gì xảy ra, tôi không ân hận. Tôi hoàn toàn bằng lòng vì sự lựa chọn của mình. Và, tôi cũng vẫn cứ tiếp tục sống và viết như từ bao năm nay. Sẽ mãi mãi như thế cho đến khi bạn về đây sẽ gặp tên tôi với hai chữ “chi mộ”.

Xin cảm ơn bạn đọc đã đọc những hàng này. Đây cũng là dịp tôi có cơ hội được tâm sự với bạn đọc. Tôi cũng xin nói thêm là một tờ báo của người bạn tôi, sau khi đã có bài phỏng vấn tôi, đã gửi thêm một số câu hỏi khác đến, nhưng tôi chưa trả lời được. Tôi không viết hồi ký như một số bạn tôi thúc giục, trong một ngày gần đây, tôi sẽ dành cho tờ báo của người bạn tôi những chi tiết khác trong cuộc sống của tôi, thay cho cuốn hồi ký.

Cám ơn nhà văn Văn Quang

Lê Thị Huệ


© 2007 gio-o
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Viết từ Sài Gòn - Văn Quang

Post by uncle_vinh »

Khủng Hoảng Niềm Tin từ Đời Sống đến Văn Hoá


Ngồi ở quán cà phê đầu ngõ, ở tiệm cắt tóc đàn ông, làm tóc đàn bà, quán ăn trưa gọi là “cơm văn phòng” ở Sài Gòn và các thành phố lớn, bây giờ người ta chỉ bàn đến chuyện tín dụng đen. Mỗi buổi sáng, đọc báo hàng ngày, không dưới 10 cái tin giật gân về chuyện vỡ nợ. Nào là “đại gia” bỏ trốn, nào là bà chủ hãng gas cuốn gói đi mất tiêu, nào là vợ chồng chủ hiệu buôn bán xe gắn máy bỏ lại căn nhà thuê trống huơ trống hoác biến mất. Để lại những thảm cảnh hết sức đau lòng, thậm chí có gia đình tan nát và có người đã tự tử. Không chỉ ở thành phố lớn mà tín dụng đen đã tràn về cả thôn quê.

Toàn dân cùng đánh bạc


Một cuộc khủng hoảng thật sự đang đến hồi gay go nhất giữa thời buổi lạm phát và bão giá. Cơn bão giá đang có dấu hiệu gia tăng bởi những ngày Tết gần kề. Dù chính phủ VN đã có rất nhiều nỗ lực làm giảm áp lực của cơn báo giá này, nhưng hệ thống tài chánh không vững vàng làm các ngân hàng lao đao, nhất là các ngân hàng nhỏ cứ bấn xúc xích vì khách hàng rút tiền ngày càng nhiều chuyển sang ngân hàng lớn hơn hoặc gửi vào các nơi khác có lời và có vẻ an toàn hơn. Nhưng không nơi nào là an toàn tuyệt đối cả, ngay cả sự an toàn tương đối cũng không có. Xin chứng minh:

- Ông Phạm Huy Hùng - chủ tịch Hiệp hội Ngân hàng VN, chủ tịch Hội đồng Quản trị (HĐQT) Vietinbank - cho hay: “Hiện nay tính rủi ro trong nhiều ngân hàng ở VN rất cao. Nhiều ngân hàng hoạt động không đúng nội dung ngân hàng, chất lượng quản trị rất kém. Huy động mười đồng xài chín đồng rưỡi thì làm sao an toàn được”.

- Là chuyên gia về tài chính ngân hàng, ông Trần Hoàng Ngân (đại biểu của TP.Sài Gòn) cho rằng “rất nhiều người dân VN vẫn đang ngộ nhận gửi tiền vào ngân hàng là tuyệt đối an toàn, ngay cả khi phá sản Nhà nước cũng có trách nhiệm. Tuy nhiên, thực tế quy định đã rõ khi gửi tiền mà ngân hàng phá sản, người VN chỉ được bảo hiểm chi trả tối đa 50 triệu đồng. Đây chính là thực tế cần cảnh báo.

Ngân hàng lời nhiều, họ hưởng, nhưng ngân hàng phá sản thì dân chịu. Theo ông Ngân, ở các nước, Luật bảo hiểm tiền gửi thường xuất hiện sau khủng hoảng tài chính với nhu cầu bảo vệ người dân gửi tiền. Ông Phạm Huy Hùng bình luận rằng: “Tôi gửi 100 tỉ mà nhận bảo hiểm 50 triệu thì khác nào tiền mua gạo, mua rau”.

- Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp Đinh Xuân Thảo cho biết ở Mỹ mức chi trả là 200.000 USD, ở Hàn Quốc chi trả tương đương khoảng 2 tỉ đồng VN. Ông Ngân thì cho hay ở nhiều nước người ta quy định mức này gấp 5-10 lần GDP bình quân…

Chính phủ không bảo hiểm cho vàng và đô la, ngay đến tiền Việt Nam cũng chỉ được bảo hiểm tối đa 50 triệu đồng, dù anh gửi 10 tỉ hay một tỉ cũng thế thôi. Nhà nước còn dè chừng như thế thì dân tin làm sao được các ngân hàng. Cho nên người dân có tí tiền tiết kiệm cứ loay hoay, không biết xoay xở thế nào. Gửi ở đâu cũng sợ bị mất, bị quỵt, bị lừa. Không còn nơi nào đáng tin cả. Niềm tin không còn chỗ đứng, thế thì đành phải liều, được ngày nào biết ngày ấy, gửi chỗ nào có lời nhất thì gửi. Không khác gì trò đánh bạc, đỏ đen nhờ Trời thôi. Thế là “toàn dân cùng phải đánh bạc”.

Còn nhiều vụ vỡ nợ ngầm

Chỉ tính riêng tại Hà Nội, từ đầu năm đến nay, “thủ đô yêu quý” đã liên tục xảy ra các vụ vỡ nợ. Công an đang điều tra vụ ở Đan Phượng với số nợ lên gần 300 tỷ đồng; vụ ở Hà Đông cũng lên đến vài trăm tỷ; ở huyện Phú Xuyên khoảng 300-400 tỷ đồng. Gần đây nhất, ở quận Cầu Giấy có vụ xù nợ trên dưới 100 tỷ đồng. Các vụ này có điểm chung là con nợ vay vốn của dân hứa trả với lãi suất cao, rồi bỏ trốn. Còn nhiều vụ khác, người dân vẫn chưa biết vì những kẻ lừa đảo dùng nhiều hình thức che giấu. Kiểu lừa thường gặp là làm ra vẻ “đại gia” đi xe đắt tiền, nhà đẹp, đeo đầy vàng trên người, ba hoa chích choè, làm nhiều người dân hoa mắt. Hoặc các con nợ núp dưới danh nghĩa doanh nghiệp, xây dựng trụ sở, và khoe khoang rằng mình có cuộc sống xa hoa giàu có để lấy lòng tin của dân. Họ lấy tiền của dân để mua xe đắt tiền. Tiêu biểu như vụ ở Phú Xuyên, con nợ mua xe đến 5-6 tỷ đồng, rồi vợ chồng Quang- Quyên ở Đan Phượng cũng đi xe đến 4-5 tỷ đồng, thực chất chỉ để khoe mẽ đi lừa.

Trong màn dạo đầu, họ trả tiền lời rất cao và sòng phẳng, rồi màn thứ hai là khất nợ, sau đó là “tắt đài” tức là không nghe điện thoại, màn cuối là đóng cửa hàng. Có khi người dân biết mình bị lừa, nhưng sợ báo công an thì con nợ sẽ bỏ trốn, khó lấy lại được tài sản, cứ ngấm ngầm tìm mọi cách đòi nợ dù chỉ còn một chút hy vọng mong manh. Vậy là ngoài những vụ đã nổ ra vẫn còn những quả bom nằm chờ sắp nổ. Màn kịch tín dụng đen chưa dừng lại ở đây, sẽ còn bi thảm hơn nhiều thực tế hiện nay.

Thị trường chứng khoán, địa ốc chết đứng

Mặt khác, thị trường chứng khoán và thị trường địa ốc đang bừng bừng khí thế, bỗng chốc rơi vào cảnh ảm đạm, chỉ có anh nhảy ra, chứ không ai nhảy vô. Tất cả chỉ vì thiếu tiền. Doanh nghiệp bán đổ bán tháo lấy tiền trả nợ, chạy làng cũng chẳng xong. Cụ thể buổi bốc thăm mua nhà giảm giá của Công ty cổ phần địa ốc dầu khí (PVL) dự định tổ chức hôm 8/11 vừa qua đã bị huỷ vì chỉ có 2 khách tham dự. Theo quy định của PVL, phải có ít nhất 25 khách hàng ghi tên tham dự mới có thể tổ chức bốc thăm. Có thể thấy chiêu quảng cáo, làm giá của PVL đã bị khách hàng bắt bài nên đã quay lưng lại với căn nhà đại hạ giá ảo như nói trên. Buổi bốc thăm cũng phá sản!

Hiện có hàng trăm dự án đóng băng, nằm trên bàn giấy, hàng ngàn căn nhà trên các “cao ốc hoành tráng bề ngoài” không bán được. Đặc biệt năm 2009-2010, giá bất động sản bị thổi lên quá cao, vượt quá khả năng chi trả, cung và cầu không gặp nhau dẫn đến các khu đô thị có hàng trăm biệt thự bị bỏ hoang. Ngoài ra, thị trường chứng khoán trước đây giống như một quả bong bóng bị "thổi" lên không đúng với giá trị thực tế và đến bây giờ mới sụt xuống. Hiện nay, nhiều nhà đầu tư lớn đã rút khỏi hai thị trường này, chỉ còn người dân bị mắc kẹt. Đây là nguyên nhân chính.

Lách lãi suất là việc làm sống còn của hầu hết ngân hàng

Hiện nay, rất nhiều người đã rút tiền từ ngân hàng ra, nghe tin “tín dụng đen” hoành hành dữ dội đã lại thu tiền về, đành gửi tạm lại ngân hàng, chỉ là tạm thời vì lãi suất quá thấp. Cái vòng luẩn quẩn như chui trong rọ. Dĩ nhiên họ chọn ngân hàng lớn để… may ra còn tin tưởng được. Các ngân hàng (NH) lại đưa ra hàng trăm “chiêu” lách lãi suất. Có những chiêu thức lách rất quái dị. Ngân Hàng Quân Đội (MB) đưa ra lãi suất 13,98% một năm đối với các kỳ hạn tháng. Tại NH Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank), tại NH Á Châu (ACB)… cũng có chương trình tiết kiệm dự thưởng… Tôi không thể kể hết những mánh lới lách lãi suất “đúng luật” hay không đúng luật này. Người dân ngẩn ngơ vì những kiểu khuyến mãi và thật sự chẳng ai kiểm soát nổi hàng ngày mình có trúng thưởng hay không.

Với tình hình này, Ngân Hàng Nhà Nước (NHNN) lại phải tính đến việc ra các quy định để phòng ngừa việc lách trần huy động bằng quay số trúng thưởng như đã làm với các “chiêu”, các trò trước đây. Nó như một cuộc đuổi bắt rất hào hứng giữa cảnh sát và kẻ trộm. Cuộc đuổi bắt này sẽ còn vã mồ hôi vì “anh lách luật” rất thông minh, "siết" chiêu này tung chiêu khác, dẹp trò này thì trò kia nảy sinh, cho thấy biện pháp hành chính đã thực sự “quá tải”, thực sự bất lực và không thể kham nổi gánh nặng giải quyết vấn đề lãi suất trên thị trường hiện nay. Bởi xét cho cùng, biện pháp hành chính là để giải quyết tình thế, không thể kéo dài năm này qua năm khác như ông NHNN đang làm. Đã đến lúc, NHNN phải đưa vào các giải pháp hợp lý hơn, phù hợp với cả hai lợi ích của dân và của NH. Nếu chưa thấy được những hậu quả thì nay đã thấy. Một mức ép lãi suất đầu vào hợp lý, như có đề nghị đã đưa ra là là 15- đến 15,5% là người gửi tiền có thể chấp nhận được và NH cũng vẫn có lời nếu cho vay sản xuất 17- 18% và phi sản xuất là 20%.
Ai tạo cơ hội cho tín dụng đen tung hoành?

Câu hỏi đặt ra là, tại sao những tổ chức tín dụng chính thống khó khăn trong việc huy động vốn thì một nguồn vốn lớn từ dân chúng lại chảy vào tín dụng đen bất chấp các rủi ro đã được cảnh báo. Câu trả lời là do mất lòng tin. Trong khi, chỉ huy động người dân với lãi suất 14% thì các ngân hàng vẫn cho vay lẫn nhau với lãi suất 20%- 25%, thậm chí trên 30% trên thị trường liên ngân hàng. Huy động áp trần 14% nhưng lãi suất cho vay thả nổi, tạo cửa cho các tổ chức tín dụng thoải mái "bắt chẹt" doanh nghiệp với lãi suất cao; kinh tế khó khăn nhưng nhiều ngân hàng vẫn lãi lớn... Thật khó để biện hộ cho những con số cũng như các vấn đề nói trên. Đó cũng là lý do khiến nhiều người tìm đến tín dụng đen. Tạo cơ hội cho tín dụng đen thả sức tung hoành, tràn lan từ các thành phố lớn cho đến cả các vùng quê yên bình.

Tham siêu lợi nhuận, hàng loạt doanh nghiệp "nhảy" vào kinh doanh bất động sản; tham lợi lớn, hầu hết các tổ chức tín dụng đẩy mạnh cho vay phi sản xuất; tham lãi suất cao, nhiều người dân tìm đến tín dụng đen... Tất cả những điều này liên quan mật thiết với nhau nên khi một thị trường gặp khó khăn sẽ kéo theo các sự rủi ro của những thị trường còn lại. Chưa biết hiệu ứng domino này sẽ đưa dẫn tới đâu.

Tôi nhớ hồi còn nhỏ, làng tôi đã xảy ra cảnh người dân phải vác cả một cái bao tải tiền đi mua một con trâu. Chúng ta hãy chờ xem, liệu có bao giờ trở lại với cái hình ảnh này không?

Nói chuỵện văn hoá cho đỡ nhức đầu

Nói mãi chuyện tín dụng đen, tín dụng đỏ nhức đầu quá, phải không bạn? Xin đề cập đến một lãnh vực khác nhẹ nhàng hơn. Đó là chuyện văn hoá. Ở VN lại đang có nhiều đề tài bàn tán sôi nổi giữa các ông nhà văn nhà thơ, nhà xuất bản. Chuyện đáng nói trước hết, có một nhà văn, vừa là bác sĩ, vừa là đại biểu quốc hội đã đưa ra đề nghị quốc hội thảo luận một luật mới gọi là “luật nhà văn”. Đó là ông nhà văn, bác sĩ, dân biểu Nguyễn Minh Hồng. Thú thật với bạn đọc tôi chưa được đọc tác phẩm nào của nhà văn này nên chưa thể kể tên, khi nào được đọc tôi xin nêu tên sau.

Của tôi mà không phải của tôi

Khi được báo chí phỏng vấn, ông Nguyễn Minh Hồng nói (xin tường thuật nguyên văn):

* Phóng viên: Theo ông, Luật nhà văn nên điều chỉnh những gì?

- Ô NM Hồng: Luật này điều chỉnh rất nhiều. Nào là các tác phẩm được xuất bản, các quy định đối với nhà văn ra sao, chế độ nhuận bút và các chế độ chính sách khác thế nào, chế độ thẩm định rồi quy định viết về cá nhân, viết về lịch sử phải thế nào...
Nhưng khi được hỏi:

* Ông là người kiến nghị làm luật này, vậy ông có sẵn sàng trình dự án luật ra Quốc hội không?

- Sáng kiến này không phải của tôi. Đó là trong một hội nghị của Hội Nhà văn, đồng chí Hữu Thỉnh đề xuất và tôi có hứa sẽ trình trước Quốc hội. Vì vậy tôi chỉ là người làm cầu nối để trình ý tưởng của Hội Nhà văn thôi.

Như vậy là nhà văn này chỉ làm theo ý của ông nhà văn Hữu Thỉnh chứ không phải của ông. Tuy nhiên ngay tại quốc hội, ông nhà văn bác sĩ này cũng đã không được nhiều “đồng viện” của ông đồng tình. Ông Nguyễn Đình Quyền (phó chủ nhiệm Uỷ ban Tư pháp) thẳng thắn bác bỏ: “Luật nhà văn không cần thiết. Theo tôi, cần xem xét lại việc đưa dự thảo Luật nhà văn vào chương trình làm luật của Quốc hội. Hiện những vấn đề liên quan đến hoạt động của nhà văn cơ bản đã được thể hiện và quy định, điều chỉnh ở Luật báo chí.

Lề trái, lề phải cùng phản ứng quyết liệt

Còn về phía các nhà văn nhà thơ thì hàng loạt những cây viết, cả lề trái và lề phải, đả kích khá dữ dội. Trong đó phải kể đến hai ông có tên tuổi và có tác phẩm được nhiều độc giả yêu thích. Nhà thơ Đỗ Trung Quân vốn là Thanh Niên Xung Phong từ năm 1979, có bài thơ dài và khá hay là bài Tạ Lỗi Trường Sơn làm từ năm 1982, nhưng lại được nhiều người biết đến qua bài thơ Quê Hương được ông Giáp Văn Thạch phổ nhạc. Ông vừa cho ra một bài thơ nhại lại bài thơ được phổ nhạc rất nổi tiếng của chính ông, ông gọi là “Quê Hương bis”. Bài thơ có đoạn vào như sau: “Quê hương làm gì có luật/ Nên ta luồn lách mỗi ngày/Quê hương mình thường lách lụật/ Huề tiền lắm vụ hay hay…”

Và, ông Trần Mạnh Hảo vốn là nhà văn, nhà thơ “cách mạng” từ chiến khu ra. Nhưng đã từ lâu, ông bước sang lề trái, với nhiều bài viết “nảy lửa”. Nhân dịp này, ông có bài viết rất mỉa mai, diễu cợt và rất thẳng thắn. Tôi không muốn trích ngang trích dọc những câu chữ của ông. Tôi chỉ xin phép trích đoạn cuối như câu kết trong bài của ông Trần Mạnh Hảo để bạn đọc có thể thấy được “văn phong” của ông:

…“Hiện nay, việc các bà vợ (hoặc tình nhân) ghen tuông cắt mất chim các ông chồng đang là chuyện phổ biến, một vấn nạn quốc gia, gây ra sự khiếp hãi cho đàn ông khi vào việc chăn gối. Mà như các vị quốc hội biết đấy, khi vào chuyện ái ân hạnh phúc kia mà đàn ông lo sợ bị mất của quý, thì chúng tôi xin cam đoan với quốc hội là trăm phần trăm trên bảo dưới không nghe. Nếu cánh đàn ông khi vào cuộc chăn gối mà trên bảo dưới không nghe vì sợ vợ làm liều, sẽ ảnh hưởng đến sự tồn vong dân tộc, thưa quốc hội. Việc này dễ gây ra diệt chủng lắm, thưa các vị dân biểu đáng kính.

Nên chúng tôi xin kiến nghị lên quốc hội hãy thương xót nhân dân mà cho ra một đạo luật cấm vợ hay tình nhân cắt đứt chim chồng vì ghen tuông, lấy tên rất dễ hiểu là LUẬT CẤM CẮT CHIM thì có phải là nhân đạo vô cùng, là cứu nguy dân tộc, là mở đường hiếu sinh cho các thế hệ tương lai, hơn là đưa ra đạo luật nhà thơ rất vui nhộn ra bàn, bị ông nghị Trần Du Lịch chê là ấm ớ hay không?”.
Câu chuyện về văn hoá còn khá dài và còn nhiều chuyện đang lùng bùng nữa, nhưng trang báo có hạn, xin để kỳ khác bàn tiếp.

Văn Quang 12-11-2011
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Viết từ Sài Gòn - Văn Quang

Post by uncle_vinh »

Đi Hội Hoa Xuân để nhớ ngày nào
Văn Quang


Thưa bạn đọc, bài này đến tay bạn, có lẽ đúng vào những ngày Tết Nhâm Thìn, cái Tết Nguyên Đán cổ truyền của dân tộc, hoặc bạn sẽ đọc vào những ngày đầu mùa xuân. Bạn đã nhận được quá nhiều lời Chúc Tết qua điện thọai và những tấm bưu thiếp rất đẹp. Nhưng theo phong tục cổ truyền của người Việt chúng ta, tôi cũng xin kính chúc quý bạn một năm mới Khỏe Mạnh - Vui Vẻ - Nhiều may mắn.

Những lời chúc đầu năm của tôi hết sức chân thành. Bởi có lẽ khi tuổi đã cao mới thấy được sức khỏe chính là điều đầu tiên chúng ta cần hơn cả. Sau đó mới đến sự vui vẻ trong một thân tâm an lạc. Là đại tỉ phú hay nghèo mạt rệp mà không yên ổn trong cuộc sống thì cũng chẳng mang lại hạnh phúc thật sự cho mỗi người. Cuối cùng là chúng ta cần đến sự may mắn trong mọi trường hợp. Trong mọi gian nan nguy hiểm, chính sự may mắn đã giúp chúng ta vượt qua tất cả. Sự may mắn quyết định số phận con người. Tôi vẫn tin vào điều đó qua những kinh nghiệm sống suốt một đời người. Chính vì thế tôi cầu mong bạn đọc sẽ gặp được tất cả những thứ đó. Những thứ không mua được, quả thật tôi cũng chẳng hiểu tại sao nó đến với người này mà không đến với người khác. Người ta gọi là “cái số”. Vâng, tôi cầu chúc các bạn sẽ gặp được cái “cài số may mắn” đó ngay từ đầu mùa xuân Nhâm Thìn.

Tôi viết bài này chỉ còn 2 ngày nữa là đến Tết. Ở Sài Gòn - hay nói chung ở VN - chộn rộn lắm rồi. Những chuyến tàu xuôi ngược, những tất bật vội vàng của người đi sắm Tết, những cửa hàng cửa hiệu đầy những hoa đèn, những bao lì xì đỏ rực, những câu đối vàng chóe, những cành mai cành đào thật và giả lẫn lộn … tất cả những thứ đó đẩy cho tâm trạng con người càng thêm xôn xao. Theo tôi thì những ngày giáp Tết mới chính là những ngày vui nhất. Từ nhiều năm nay, một số lớn người VN có anh em, họ hàng, con cháu ở nước ngoài thăm hỏi tới tấp, quà gửi tưng bừng và nỗi nhớ nhung càng làm gần thêm tình nghĩa. Nhưng đến đêm Giao Thừa, dường như mọi con tim lắng xuống, không khí bỗng trở nên trang trọng hơn, những lo toan tạm thời khép lại, để cho Năm Mới tràn vào với những ước nguyện như đang thành hình trong từng con tim, từng khuôn mặt. Mọi người nói năng thận trọng hơn, thái độ hòa nhã hơn, lịch thiệp hơn và cuộc sống như lại bắt đầu sang một trang mới. Thế nên trước Tết thường vui vẻ, chộn rộn hơn những ngày Tết.

Tính quẩn chuyện đời

Nhân dịp cuối năm, xin bạn cho tôi “tính quẩn chuyện đời” để đánh dấu một năm lận đận. Tôi “tả oán” vài lời của một anh “ làm dâu trăm họ” tức là anh hành nghề viết báo. Có lẽ nó cũng gần giống với những bạn đồng nghiệp khác của tôi, chỉ khác chút xíu là tôi “đa mang” quá. Những ông khác chỉ cộng tác với một tờ báo đã tóe khói, còn tôi cộng tác với nhiều báo, nhưng thật ra cũng chỉ có 1 bài gửi chung cho nhiều báo khác nhau. Các vị có trang web riêng, có blog cứ “tự nhiên” xài chung, càng vui.

Trong khi cả thành phố đang tấp nập, nháo nhác và hàng xóm đang sửa soạn lại nhà, sơn cửa, rủ nhau đi chơi chợ Tết, đi sắm Tết thì những anh viết báo như tôi vẫn cặm cụi với chiếc computer ngồi lo “chuyện bao đồng”. Riêng với tôi thì càng “lôi thôi” hơn. Bạn bè nhiều, ân tình cũng lắm nên suốt những ngày Tết chẳng bao giờ được nghỉ ngơi. Báo này nghỉ thì báo kia vẫn ra đều đều, “ông ra thì bà nghỉ, bà ra thì ông nghỉ” nên chẳng tuần nào được rảnh rang. Báo nào tôi cộng tác thường xuyên, cứ gửi bài chậm là các ông ấy kêu toáng lên, e mail, điện thoại hối thúc như hò đò. Có ông lại nghĩ “chắc có vấn đề rồi đây”. Vấn đề ở đây là các ông ấy lo cho tôi bị “hỏi thăm sức khỏe” như cái cú bị “sờ gáy, nắn gân” hai năm trước. Tôi lại phải lo viết bài sớm để anh em đỡ lo cho mình. Không có mùng một Tết và cũng chẳng có mùng hai. Làm tuốt luốt.

Xin tâm sự thành thật với bạn đọc, tôi làm thế không phải vì mưu sinh mà vì “cái nghiệp” không bỏ được và cũng không bao giờ bỏ được những tờ báo của bạn bè. Phần khác cũng vì không viết thì chẳng biết làm gì. Viết để thấy mình còn được sống và viết những điều cần phải viết để thấy mình không sống thừa. Con đường mình đã chọn thì phải đi cho hết. Buông mặc mọi thủ đoạn hiểm độc, mọi toan tính vu khống, mọi chông gai phía trước.

Bạn gần không có, bạn xa chưa về

Tôi biết năm nào ở Sài Gòn cũng chăng đèn kết hoa ở những con đường trung tâm thành phố. Nhưng với tôi, dường như kiểu tổ chức đó “xưa” rồi. Lại “bình mới rượu cũ” thôi, chẳng còn gì đáng phải chú ý nữa. Cả tháng nay tôi không ra đến đường Lê Lợi – Nguyễn Huệ làm gì. Phần khác vì có cái xe gắn máy cho thằng cháu vừa lên đại học, nhưng nhà nghèo quá, không đủ tiền mua xe, dù là một cái xe cũ. Tôi nghe anh tôi kể lại, thằng cháu cứ để dành được vài trăm ngàn lại đem gửi bà nội để khi lên đại học mua xe. Vậy mà đến lúc lên đại học, nó chỉ có chưa đầy một triệu, trường rất xa, có thể nó sẽ phải bỏ học. Mủi lòng và sợ thằng cháu bỏ học nên “bàn giao” ngay xe và giấy tờ cho nó. Ở Sài Gòn mà không có xe đồng nghĩa với… không có chân. Thế là tôi trở thành “người không chân”.

Thêm nữa, vào cái tuổi tôi, phản ứng chắc chắn đã chậm nhiều nên lái xe gắn máy không còn vững vàng như “anh hùng xa lộ” thuở xa xưa. Đi đâu một mình thì giao mạng cho anh xe ôm. Còn cái tật thứ ba là lười. Ở nhà mãi thành quen, chẳng muốn đi đến đâu cho yên thân. Một điều quan trọng hơn cả là không có bạn, hay đúng hơn là thiếu bạn tâm giao. Ở một nơi như trong cái xã hội này, người ta đánh mất niềm tin, khó sống chân thật, nhiều người buộc phải nói dối, phải sống hai mặt. Ngoài mặt hoan hô, trong lòng đả đảo rồi thành thói quen. Thế nên lại phải hạn chế tối đa sự giao thiệp. Cái tâm sự “bạn gần không có, bạn xa chưa về” là sự cô đơn và cũng là sự “lưu lạc” ngay trên quê hương mình.

Tôi thường “quan sát” các sự kiện qua đài truyền hình, qua báo chí và trên mạng internet, đôi khi qua điện thoại. Còn dư luận thì ra quán cà phê đầu ngõ, đầu chợ Bàn Cờ, tha hồ nghe người dân “bình luận” đủ thứ trên đời, nhất là mấy anh thợ cắt tóc là “trung tâm tin tức” của khu dân cư. Đây là thứ tin tức “thật” nhất, sống động nhất, không sợ bị thổi phồng hay bóp méo. Người ta nói, người ta kể, người ta bàn từ trong tâm, cái “tâm” của người chất phác, không được thua gì trong mọi biến chuyển thời cuộc.
Các “đẳng cấp” chơi hoa tết

Tuy nhiên, năm nào cũng vậy, tôi dành một buổi để đi chơi hội hoa xuân vào một trong vài ngày cuối cùng của năm. Ở đây có thể bắt gặp những người đi “mót hoa cuối mùa”, tức là đảo qua các khu chợ hoa vào ngày cuối cùng 29 hoặc 30 Tết. Lúc đó các chủ vựa hoa từ lục tỉnh lên, ế hàng, hoa Tết không bán được chỉ có nước mang về làm củi. Họ bán tống bán tháo để khỏi mất công, mất của chở hoa về. Dĩ nhiên những thứ hoa đó chỉ là loại rẻ tiền. Vậy mà đôi khi cũng chọn được một vài cành ưng ý mang về chưng để các con nó mừng, bà vợ không tủi thân.

Có ba loại “chơi hoa Tết”. Loại thứ nhất là các đại gia, đại công ty, mua tận vườn những loại hoa cảnh quý hiếm. Năm nay có loại bonsai lên tới vài chục tỉ đồng cũng có “đại gia” tranh nhau mua. Ngay cả đến loại trái cây như dưa hấu, trái bưởi cũng được “trồng ép” thành những hình thù lạ mắt. Mấy năm trước đã có dưa hấu vuông, năm nay lại có dưa hấu hình bầu, bưởi hình nậm rượu, năm sau chắc chắn sẽ có dưa hấu hình chiếc xe hơi. Những thứ “hàng độc” này được bán với giá trên trời, không thể nói nó gấp bao nhiêu lần trái cây thường. Có khi một cặp bưởi ở chợ này giá 500 ngàn đồng, ở chợ khác giá gần hai triệu. Vậy mà chỉ vài hôm là thứ “trái cây siêu đẳng” này cũng hết sạch.

Loại thứ hai là loại trung lưu nhưng thích “đẳng cấp”, đi chọn hoa ngay từ phiên khai mạc để có loại hoa quả quý hiếm, có giá chừng một hai triệu, chứ chưa dám “trèo cao” như các “quý sờ tộc” và đại quan, đại gia.
Loại thứ ba là loại đợi “chợ chiều” mua hoa giá “bèo” vào ngày cuối phiên chợ như tôi đã nói ở trên. Còn dân lao động chân tay lam lũ, loại được coi là “thành phần nồng cốt chính hiệu”, dường như chẳng bao giờ biết đến thú chơi hoa. Thú “chơi cơm” còn chưa đủ lấy gì ra mà chơi hoa?! Nhìn vào đó thì đủ biết cái khoảng cách giàu nghèo hiện nạy ở VN lớn như thế nào? Và cái khoảng cách ấy sẽ mang lại hậu quả như thế nào trong tương lai? Chắc bạn đọc đã có thể dự đoán được

Vài điều đặc biêt của Hội Hoa Xuân năm nay

Hội Hoa Xuân ở vườn Tao Đàn Sài Gòn mới khai mạc hôm 25 tháng chạp. Hôm sau, tôi rủ Thanh Saigon, một cây bút mới rất tháo vát, đi thăm Hội Hoa Xuân. Ngồi sau chiếc xe gắn máy loại “phổ thông” nhất Sài Gòn, chúng tôi đến Phở Hòa dằn bụng trước khi vào “công tác”. Đây là tiệm phở bò khá nổi tiếng trước và sau 1975. Phải thú nhận với bạn là lâu lắm rồi tôi mới ghé qua hàng phở này. Giá cả không “mềm” và cũng không “sang” như quán Phở Ta của bà Tuyết Mai, nay đã đóng cửa, nghỉ khỏe. Thường là tôi ăn sáng với những món “đặc sản chợ Bàn Cờ”. Bánh cuốn, bún ốc, bún riêu, sôi lúa, cơm tấm bì, bún bò, bún mọc, bún thang… không món nào quá hai chục ngàn đồng. Đấy là tính theo thời giá mới sau khi xăng tăng giá. Giá cũ chỉ có 15 ngàn đồng trở lại. Lâu lâu có bạn bè chở đi mới chịu khó mò đến hàng phở có tiếng và dĩ nhiên giá tiền cũng tham gia vào cái sự nổi tiếng này. Nó gấp đôi, gấp ba giá bình dân của chợ Bàn Cờ. Cửa hàng lúc nào cũng đầy ắp khách từ nhà dưới đến trên lầu. Muốn ăn sang môt tí thì cũng phải chịu đựng một tí. Ngồi giữa chốn ba quân, nghe tiếng ồn ào cũng đủ nhức đầu. Khách vào đây chỉ để ăn rồi nhanh chóng ra đi, không có thì giờ tán chuyện gẫu ở đây.

Gần 9 giờ, chúng tôi đến vườn Tao Đàn. Trước hết gặp một sự ngạc nhiên lớn là chỗ gửi xe gắn máy chỉ có giá hai ngàn, xe đạp một ngàn đồng. Đó là chỗ lực lượng Thanh Niên tự nguyện tổ chức, làm gương cho những nơi khác. Có những chỗ gửi xe hè phố vào “thời điểm cắt cổ” này, giá trời ơi, có khi lên tới ba bốn chục ngàn là chuyện thường ngày ở huyện.

Con đường dẫn vào khu Hội Hoa Xuân được chào đón bằng hai con rồng uốn khúc, được uốn ghép bằng hoa lá cành chạy dài theo hai bên cổng. Khách đến thăm vẫn còn thưa thớt. Hầu hết là khách du lịch hoặc những bà con ở nước ngoài về thăm gia đình, đến xem hoa, chụp hình kỷ niệm. Hội Hoa Xuân chia làm nhiều khu, trưng bày từng loại hoa riêng biệt, nhưng cũng không khác năm trước bao nhiêu. Khu hoa lan, khu tiểu cảnh, khu cây khô, khu hoa mai, khu bonsai, khu trang trí, khu trưng bày cá cảnh. Ban tổ chức đã dành riêng một khu vực để trưng bày những biểu tượng về biển đảo, nổi bật là cột mốc chủ quyền đảo Trường Sa làm bằng hoa chính giữa khu trưng bày.

Được chú ý nhiều nhất của hội hoa là những chậu hoa lan xanh nổi bật giữa rừng hoa vàng hoa đỏ. Màu sắc rất lạ, hoa lá xum xuê che kín, không nhìn thấy thân và cành. Một điểm đặc biệt nữa của hội hoa năm nay là loại hoa đất sét. Mẫu hoa độc đáo này làm từ... đất sét. Mới du nhập về Việt Nam vài năm gần đây nhưng hoa đất Nhật Bản ngày càng chiếm được cảm tình của nhiều người vì sự lạ mắt, độc đáo, tươi tắn như hoa thật. Đất sét trắng được nhập từ Nhật Bản, sau đó được pha trộn với các màu khác nhau để tạo nên các loại thân, cành, lá hoa, treo khô lên từ 4 đến 5 tiếng. Tùy từng chất liệu bình được chọn để cắm mà giá có thể từ vài trăm đến vài triệu. Tôi đặc biết chú ý đến cây chuối nhỏ làm bằng đất sét, màu sắc như thật với những buồng chuối có những nải chuối và hoa chuối nhỏ xíu rất dễ thương, bày trên bàn hay trong tủ kính sẽ rất lạ. Hoa đất có màu sắc sặc sỡ, thậm chí theo nhiều người còn khen đẹp hơn cả hoa thật, lại không cần tưới tắm, chăm sóc công phu. Nếu chăm sóc tốt những bình hoa này có tuổi thọ từ 3 đến 10 năm.

Những hình bóng cũ

Chúng tôi tìm đến khu bày bán những đặc sản từ miền Trung miền Bắc mang vào. Khu này thường được bày ở bên nhà Văn Hóa Lao Động, cạnh vườn Tao Đàn. Nhưng năm nay không thấy những gian hàng của các “nghệ nhân” từ chùa Non Nước mang vào nữa mà chỉ thu hẹp thành những gian nhỏ phía gần ngoài cổng Hội Hoa Xuân. Cũng không thấy chị gốm Bát Tràng bày hàng loạt đồ gốm thô đặc biệt của làng quê miền Bắc này. Tôi nhớ đến khoảnh bảy tám năm trước, đi cùng Phan Nghị, Vương Đức Lệ đến những khu này. Phan Nghị “tám” vớ vẩn với chị bán hàng gốm Bát Tràng vui như pháo tết. Chị bán một bộ đĩa gốm có ba chữ Phúc - Lộc - Thọ. Nhưng tôi chỉ mua có hai chữ Phúc và Lộc. Chị hỏi tại sao, tôi giải thích gọn gàng là tôi trên 70 rồi, còn mua chữ Thọ làm gì nữa. Trời thương cho sống đến tuổi này đã là may. Chị cười rất duyên và nói “Sao mà bác giống bố cháu thế, ông cũng nói vậy”. Đến nay tôi còn treo hai chữ trên hai cái đĩa Bát Tràng đó giữa nhà. Tôi nhớ năm sau tôi đi một mình, nhà chị gốm Bát Tràng hỏi thăm “ông vẫn đi với bác đâu”? Tôi nói ông ấy quy tiên từ giữa năm rồi. Chị Bát Tràng ngẩn người rồi thở dài ngậm ngùi: “Đời người ngắn quá bác nhỉ. Bác thắp giùm cháu nén hương cho ông ấy nhá”. Chị không biết tên ông khách và ông khách cũng chẳng biết tên cô bán hàng, chỉ gọi là cô gốm Bát Tràng, vậy mà họ vẫn nhớ nhau. Hai ba năm nay tôi không gặp lại “cố nhân” đó nữa. Chẳng biết năm nay cô trôi giạt phương nào. Nhưng tôi vẫn nhớ hàm răng trắng đều và đôi má thoáng đỏ khi nụ cười của cô sáng rỡ. Tôi nhớ Vương Đức Lệ ngày nào hiền lành lặng lẽ đi bên tôi và giục tôi mua bức tượng đất bọc nhung đỏ mang hình thiếu nữ phương Tây, ngực trần, uốn éo đội bầu nước, có thể dùng để cắm hoa. Hơn mười năm rồi, tôi vẫn còn để bức tượng đó bên chiếc máy truyền hình. Bây giờ hai ông bạn tôi đã ra người thiên cổ, nhưng ngày nào tôi cũng nhìn thấy hình bóng hai ông này qua những kỷ niệm của Hội Hoa Xuân.

Thật ra trong nhà tôi chỉ có vài thứ quý nhất, đó là những kỷ niệm rất nhỏ của bạn bè. Một chai rượu, một cái bật lửa, một chiếc ly thủy tinh… đều in dấu của một người còn sống hay người đã mất. Họ vẫn ở bên nhau và bên tôi. Gia tài của tôi chỉ có thế.

Chợ Lớn năm nay có gì lạ?

Hơn 10 giờ, Thanh Sài Gòn chở tôi vòng qua đường hoa Nguyễn Huệ. Vào buổi sáng nên khách đến thăm còn rất thưa. Ngắm nhìn toàn cảnh đường hoa năm nay, có nhiều nét khác nhưng tổng thể thì vẫn như năm cũ. Nếu năm trước là chiếc cầu khỉ thì năm nay là chiếc guồng nước, nếu năm trước là khu hoa lan thì năm nay là khu đồng ruộng thôn dã… Dù sao con đường hoa cũng làm cho Sài Gòn mới hơn, song chỉ mới cái bề ngoài. Ghé qua khu chợ Huỳnh Thúc Kháng, mang tên Chợ Trời, cũng chẳng có gì lạ so với những ngày thường. Chúng tôi phóng xe vào Chợ Lớn thử xem đồng bào ta và người Việt gốc Hoa ăn Tết ra sao. Nhưng ngay từ đầu đường Trần Hưng Đạo, từ sau siêu thị Nguyễn Kim, không khí vắng ngắt, cứ như không có mùa xuân từ đây. Mọi sinh hoạt vẫn bình thường lặng lẽ. Suốt chiều dài đó, kéo vào tới Chợ Lớn, gặp nhà hàng Đồng Khánh, vẫn thưa thớt. Lác đác trên vỉa hè có mấy hàng treo lủng lẳng những chùm hoa giả, phong bao, câu đối nhưng chẳng có khách nào viếng thăm. Mọi thứ như chỉ có cái Tết uể oải như chiếu lệ.

Đi sâu hơn vào dãy phố chính Trần Hưng Đạo, nơi có những nhà hàng lớn cũng chẳng hơn gì. Đường phố ở đây thông thoáng, khác hẳn Sài Gòn tấp nập. Trước năm 1975, nếu muốn đi “ăn tiệm”, hầu hết phải tìm vào Chợ Lớn mới có nhà hàng sang và món ăn ngon đủ kiểu. Phố ăn chơi chính là dãy phố này, nơi có nhà hàng lớn như Đồng Khánh, Bát Đạt, Arc En Ciel, Versaille…tôi không thể kể hết. Trước đây nhà hàng ăn Bát Đạt nổi tiếng với những món ngon, khách sạn chỉ là phần phụ. Nay thì khác, Bát Đạt chỉ còn là khách sạn, không có hàng ăn. Arc En Ciel cũng chẳng hơn gì, mặc dầu cái mặt tiền được trang trí “hoành tráng” hơn xưa. Hầu như tất cả những tiệm ăn, tiệm nhảy, nơi chốn ăn chơi đều đã chuyển hết về những khu phố Sài Gòn. Chúng tôi kiếm một quán ăn trưa cũng khó. Cái phồn thịnh năm xưa của Chợ Lớn đã hết thời, chính vì thế nên khách du lịch và người Việt ở nước ngoài về VN không còn chú ý và nhiều ông còn không bước chân vào Chợ Lớn nữa. Người ta quên phần đất này rồi. Nhưng tôi thì không thể quên, khi đi qua con đường xưa, nhà hàng cũ, những hình bóng của những người bạn thân quen hơn 30 năm xưa lại ùa về, không thiếu một ai.

Tôi đi Hội Hoa Xuân và đi Chợ Trời, nhảy vào Chợ Lớn chỉ là để tìm lại những hình bóng bạn bè từ thuở xa xưa. Mỗi năm một lần đi tìm ngày tháng cũ mang theo vào Năm Mới cho cuộc đời bớt quạnh hiu.

Văn Quang – 21-1-2012
User avatar
uncle_vinh
Site Admin
Posts: 1861
Joined: 26 Feb 05, Sat, 2:56 pm
Location: CN13, AZ, USA
Contact:

Re: Viết từ Sài Gòn - Văn Quang

Post by uncle_vinh »

Chuyện vui buồn ở bệnh viện
Văn Quang
Viết từ Sài Gòn


“Ghét của nào trời trao của đó”, câu phương ngôn của người Việt, chẳng sai tí nào. Như tôi đã thường “kính trình” với bạn đọc rằng ở VN có nhiều thứ để sợ. Sợ chết vì thức ăn nhiễm độc, đi đường sợ trời mưa điện giật, sợ xe cán, sợ cướp giật… nói tóm lại là có nhiều kiểu sợ, khối kiểu “chết made in Saigon”. Nhưng hầu hết người dân đều sợ nhất hai thứ. Một là đến cửa quan “xin cho” bất cứ việc gì. Hai là phải mang thân vào bệnh viện. Đến hai nơi đó, cái giá trị của bạn chỉ như cái bút bi, mặc cho “con tạo xoay vần”, đặt nằm trên bàn giấy đầy quyền uy hay nó lăn xuống gầm bàn, gầm tủ cũng đành chịu vậy.

Hành trình đến bệnh viện

Ấy thế mà tôi không thoát được, tuần vừa qua tôi phải vào bệnh viện (BV). Phải vào cấp tốc vì cái thứ bệnh mà 90% những người đàn ông lớn tuổi đều mắc phải. Người ta nói đó là trái tim thứ hai của cánh đàn ông. Bệnh u tiền liệt tuyến! Nhẹ thì khó tiểu tiện, nặng thì bí luôn. Không vào nhanh, nó “bể” ra là đi tàu suốt, không cách nào cứu được. Khi còn ở Lộc Ninh, tôi đã thấy một anh sĩ quan biên phòng rất khỏe mạnh. Bí tiểu, mang về đến BV quân đội 175 ở Saigon mất khoảng hơn 2 giờ thì bể bọng, lăn đùng ra chết. May mà tôi đã dọn về Saigon và từ nhà tôi đến BV chỉ mất 5 phút đi xe ôm.

Những năm gần đây, đọc báo, xem truyền hình, hầu như ngày nào các phương tiện thông tin cũng “kêu ca”, đôi khi rất nặng lời về tình trạng ở khắp các BV từ Bắc chí Nam. Nào là “quá tải”, đứng ngồi lộn xộn hơn ở chợ, nào là nằm dưới gầm giường, nào là chết oan, nào là dân kéo đến đập phá BV, nào là y đức xuống cấp của một số không ít các vị bác sĩ (BS)… Nghe hết hồn. Chỉ cầu Trời, xin Chúa làm sao cho con khỏe mạnh; đừng bắt con vào “nhà thương”.
Tôi mang cái tâm trạng ấy đến BV. Ngồi trên chiếc xe ôm chạy tắt qua một con hẻm, băng qua một con đường là tới, mà sao tôi thấy quá xa. Bạn ở trong cái tình trạng bí tiểu, nó thúc phải đi mà đi không được, nó tắc, nó buốt, nó hành như người mình cũng muốn nổ tung. Bà xã tôi đứng đợi trước cửa BV, dìu tôi lên mấy bậc thang, lách qua đám bệnh nhân đang đứng đợi lấy số khám bệnh, chui thẳng vào phòng cấp cứu. Lúc đó là gần 8 giờ sáng ngày 2 tháng 5-2012.

Ông ngồi ở phòng cấp cứu rất đẹp trai nhưng…

Phòng cấp cứu nhỏ và khang trang. Một ông trẻ tuổi đẹp trai, mặt mũi trắng trẻo, chẳng biết là bác sĩ hay cái gì sĩ, dáng chừng là sếp cái đám cấp cứu này, nghiêm trang ngước đầu lên, lạnh lùng hỏi:

– Đi đâu đây?

Ơ hay, cái nhà ông BS này, người ta vào phòng cấp cứu mà lại hỏi đi đâu đây thì lạ thật. Chẳng lẽ đi ăn phở ở phòng cấp cứu sao? Người nhà tôi kính cẩn thưa:

– Thưa bác sĩ, ông già nhà tôi bị u tiền liệt tuyến, bí tiểu từ đêm…

Ông BS nhìn cái thân hình méo mó của tôi rồi xua tay:

– Ở đây không có cấp cứu khoa này. Ra ngoài kia mà hỏi.

Rồi ông cúi xuống xem cái gì đó, như không có ai trước mặt. Bị xua đuổi trắng trợn, tôi chưng hửng, còn hơn là bị dội gáo nước đá vào mặt. Nhưng “thấp cổ bé miệng”, cũng đành quay ra, chứ làm sao hơn. Tôi nhăn nhó đòi về hoặc đi BV khác ngay. Người nhà tôi biết bệnh tình không thể để lâu nên đôn đáo chạy đi hỏi. Một bà y tá già đi trong hành lang bèn chỉ cho phòng số 10 là khoa chuyên trị về bệnh này. Từ phòng cấp cứu đến chuyên khoa trị bệnh của tôi chỉ chừng hơn 10 thước. Tôi không hiểu tại sao ông thầy thuốc “đẹp trai, học giỏi con nhà giàu” ngồi oai vệ ở phòng cấp cứu không thèm chỉ cho chúng tôi? Thú thật là tôi không thể quên được cái bộ mặt lạnh hơn phi di đe, hống hách xằng của ông ta. Nếu tôi là họa sĩ như ông Đinh Cường, chắc lúc nào tôi cũng có thể vẽ y chang khuôn mặt khôi ngô bầu bĩnh mà khó ưa đó. Tôi tin rằng nhiều bệnh nhân ở các BV gặp những ông hống hách hoặc thiếu y đức cũng có một ý nghĩ như tôi. Có thể họ sẽ mang theo hình ảnh cái bản mặt đó cả đời nếu bệnh tình của họ không được chữa trị kịp thời. Lúc đó tôi mới thấy rõ, một thái độ nhỏ của người thầy thuốc đối với bệnh nhân (BN) quan trọng như thế nào. Mong rằng các vị thầy thuốc đều hiểu rõ và hình dung được điều này sau lời thề Hypprocates.

Một hình ảnh trái ngược tôi cũng không quên

Bí quá, người nhà tôi hé cành cửa phòng số 10 của BV này. Có hai BN ngồi chờ trên hai chiếc ghế nhỏ. Một BS quay ra, người nhà tôi trình bày bệnh tình của tôi. Vị BS nhìn tôi và nhanh nhẹn đứng lên vẫy tay mời vào:

– Ông tìm đúng khoa rồi đấy. Ông vào đây.

Thế là ông BS kéo tôi ngồi xuống ghế đối diện hỏi bệnh tình. Ngay sau đó, có lẽ thấy bệnh của tôi nguy hiểm hơn nên ông xin lỗi hai BN trẻ ngồi chờ và đích thân đưa tôi đi qua các phòng khác làm một vài thủ tục. Ông ghé qua phòng cấp cứu mượn một vài dụng cụ, đưa tôi qua phòng khác bắt đầu chữa trị với một thái độ hết sức thận trọng, nhanh nhẹn, cứ như người nhà mình vậy. Quả thật đây cũng là điều khiến tôi ngạc nhiên. Thật ra việc “sơ cứu” đầu tiên chẳng có gì phức tạp. Chỉ cần vài dụng cụ tầm thường như một cái ống nhỏ giống cái ống hút vẫn thấy ở các quán nước, môt ống pommade là có thể thông đường tiểu được rồi. Chỉ 10 phút sau là mọi chuyện xong xuôi. Lúc đó lấy ra được 1 lít 8 nước. Ông BS cho biết, nếu để lâu hơn, khoảng hơn 2 lít là BN có thể bị bể (xin lỗi bạn đọc) thông thường người ta gọi là bể bọng đái.

Chính tay ông BS làm mọi thứ rất chuyên nghiệp, mặc dầu ở bên ông có hai y tá. Ông thân mật vỗ vai tôi:

– Bác thấy dễ chịu rồi chứ?

Tôi cảm động nhìn ông với lòng biết ơn, cảm tưởng của tôi như vừa thoát được gánh nặng nhất trong đời. Hơn 12 năm, ở cái gọi là “trại cải tạo” ra cũng mừng đến thế thôi. Tôi với ông không hề quen biết. Lúc đó tôi mới có tâm trí nhìn ông. Chừng trên 40 tuổi, ông không đẹp trai nhưng rất dễ thương. Ông đưa tôi trở lại phòng số 10 và mỉm cười hỏi tôi “bây giờ bác đã chịu mổ chưa”. Tất nhiên tôi phải gật đầu ngay, không giống như 5-7 năm trước khi BS cho ý kiến tôi nên mổ nội soi, tôi đã từ chối vì còn thấy khỏe mạnh và còn con đường thoát là uống lá trinh nữ hoàng cung. Thứ lá này tôi có thể trồng trong vườn nhà và uống lá tươi, nhưng nó không làm cho cục bướu trong đường tiểu bớt đi mà có lẽ chỉ làm cho cục bướu không phát triển thêm chăng? Bây giờ cục bướu đã sưng to, bít kín ống dẫn nước nên buộc phải mổ thôi.

Tôi nói rõ để may ra mang lại chút kinh nghiệm cho các ông bạn từ 50 tuổi trở lên phải canh chừng bệnh này như ông BS Nguyễn Ý Đức đã phổ biến trong một bài về “Bệnh to nhiếp hộ tuyến”. Tôi đã đọc rất kỹ.

Ông BS điều trị mang biển tên “BS Đỗ Trí Nhẫn” cho tôi đi siêu âm và quyết định mổ ngay. Trong khi tôi phải qua các phòng để lấy máu xét nghiệm, đo điện tâm đồ, ông cho chuẩn bị sẵn phòng mổ.

Câu chuyện trong phòng mổ


Gần nửa giờ sau, tôi được đưa vào phòng mổ nhỏ. Một ê kíp khoảng chừng 5-6 người. Hai cô y tá trẻ tươi cười thân mật chào hỏi. Tôi biết khi mổ, tôi sẽ không được chụp

thuốc mê vì đã lớn tuổi mà chỉ chích thuốc tê. Tôi ngại bị đau nên làm ra vẻ “can đảm” yêu cầu cứ chụp thuốc mê cho tôi, tôi sẽ ký giấy cam đoan. Tôi nói thêm là “tôi đã 80 rồi, các bạn tôi ra đi gần hết, có đi theo các bạn tôi cũng hài lòng”. Cô y tá trẻ cười rất có duyên trả lời: “Bác còn khỏe lắm, bác đòi đi đâu? Sau ca mổ, bác đi karaoke thì có”, làm cả phòng rộn rã tiếng cười. Bỗng dưng tôi thấy thảnh thơi hơn. Qua những câu chuyện vui vẻ dí dỏm ở đây, tôi nghĩ đó là một cách làm cho bệnh nhân lên bàn mổ yên tâm hơn. Rõ ràng là một bài học hẳn hoi (do BS hay do BV huấn luyện) chứ không chỉ là sự vô tình trong ca mổ của riêng tôi.

Ca mổ nội soi bắt đầu sau khi chích thuốc tê vài phút. Tôi chẳng biết gì phía sau tấm màn được dăng ngang lưng, chẳng cảm thấy đau đớn trong hơn nửa tiếng đầu. Sau đó cảm thấy đau khoảng 15-20 phút là ca mổ xong. Vẫn những tiếng nói hồn nhiên vui vẻ thông báo: “Xong rồi đó bác, dễ chịu không. Bác qua phòng hồi sức nằm cho khỏe”. Phòng hồi sức là căn phòng rộng, nhận tất cả các BN từ các ca mổ khác. Tôi vẫn tỉnh táo, vẫn không hề cảm thấy đau đớn gì ngoài việc không tìm thấy hai cái chân mình đâu. Tôi có ý nghĩ khôi hài là chẳng lẽ tôi mổ bàng quang mà mấy ông ấy cắt lầm 2 cái chân của tôi sao?

Thật ra là nửa người tôi bị tê, sờ thấy một khối như khối gỗ mà không biết đó là chân mình. Khoảng 4 tiếng sau, 2 cái chân có cảm giác, tôi được đưa về phòng nghỉ của BV, chính ông BS điều trị đã gọi ĐT đặt sẵn cho tôi ở lại BV vài ngày.

Những chuyện lạ của BV này

Phòng tôi nằm là phòng 2 người, nhưng vì tôi phải “thoát y vũ” suốt ngày để tiện việc theo dõi và điều trị, nên không tiện nằm chung, tôi phải bao luôn phòng này. Cái giá phòng rất rẻ, so với những BV bình dân khác ở Sài Gòn. Một người 350 ngàn VNĐ, bao luôn là 700 ngàn VNĐ/1 ngày (bằng 35 USD). Điều này được chứng thực bằng hầu hết các bạn tôi đến thăm.

Một điều đặc biệt nữa là khi các bạn tôi gọi điện thoại hỏi tôi nằm ở BV nào. Tôi trả lời đó là BV Vạn Hạnh. Tất cả các bạn tôi không ai biết BV này nằm ở đâu, cái tên lạ hoắc dù con đường không lạ. BV nằm ở con đường Sư Vạn Hạnh nối dài, con đường có từ hồi xa xưa, trước những năm 1975. Đây là BV tư, nghe đâu có 3 chị em một gia đình thương gia đầu tư cách đây khoảng hơn 10 năm.

Ngay cả những tay được mệnh danh là “thổ công Sài Gòn” như Khôi, Thanh Saigon, Đoàn Dự, Sài Gòn Cô Nương Hàm Anh, Trần Thiện Hiệp… đều mù tịt về BV này. Họ hỏi tới hỏi lui mới lần ra cái địa chỉ của BV. Khi kéo lên thăm tôi, họ đều tỏ vẻ rất ngạc nhiên rằng tại sao ở Sài Gòn lại có một BV tốt như thế này mà rất ít người biết. Phòng tôi nằm khá rộng, giường này cách giường kia đúng 1m80. Năm bẩy ông bạn đến thăm nằm ngồi rộng rãi. Các bạn tôi đã từng trải qua các BV, so sánh cái giá của nó rẻ hơn nhiều dịch vụ của những BV Saigon như BV Chợ Rẫy, BV Bình Dân. Theo đạo diễn Lý Huỳnh thì anh đã phải trả tới 1 triệu đồng cho 1 phòng còn nhỏ hơn ở dịch vụ BV công.

Còn so với loại BV thuộc loại “quý tộc” như BV Việt Pháp, BV quốc tế thì mang đô la ra nói chuyện chứ đừng nói bằng tiền Việt. Một phòng có thể lên tới cả trăm đô 1 ngày, không kể tiền chữa trị thuốc men. Một anh bạn tôi nói : “Ca mổ như của anh vào BV quý tộc thì cứ sắp sẵn 5-10 ngàn đô” chứ không phải 1 ngàn đô đâu.

Ngay cả ông bạn Nhất Giang từ Úc về, đến thăm tôi cũng công nhận là phòng rẻ, đẹp, rộng rãi hơn là nhiều phòng ở các BV quốc tế tại VN nay đã xuống cấp.

Chỉ vì cái số điện thoại của ông bác sĩ

Một vài người bạn hỏi tôi “Làm sao anh biết BV này?”. Xin thưa là tôi đến khám ở BV Vạn Hạnh này cách đây 10 năm, từ khi nó mới chỉ là một cái villa được sửa sang lại. Khi ấy mới có chừng vài ba khoa, vài phòng bệnh, BS cũng chỉ có 5-3 người. Giá ‘bình dân” và BS rất có lương tâm. Hồi đó tôi bị cảm cúm nặng, vào BV được BS Huỳnh Phong Vũ khám và cho thuốc về nhà uống kèm theo số điện thoại. Hôm sau bệnh tôi không bớt, điện thoại vào hỏi BS, ông nói tắt máy đi và ngay sau đó ông nhắn tin cho tên 3 thứ thuốc khác mua về uống. Quả nhiên bệnh thuyên giảm nhanh chóng, ông gọi ĐT hỏi thăm. Vợ chồng chú em tôi ở An Giang lên khám bệnh, khi về cũng được vị BS này cho số ĐT và khi gặp phản ứng, chỉ cần gọi ĐT cho BS là ông này lại nhắn tin cho mua vài thứ thuốc uống, bệnh tình lại khỏi hẳn, không cần mất thì giờ tốn kém rất nhiều tiền từ quê xa mò lên BV tái khám. Từ đó, cả gia đình tôi gắn bó với BV này. Có lẽ nhiều gia đình khác cũng thế.

Từ đó đến nay, BV cứ ngày một mở mang thêm, các BS dường như cũng được chọn lọc và các phụ tá, y tá, lao công, bảo vệ đều được huấn luyện rất kỹ. Tôi nằm ở phòng này hơn 3 ngày đều được chăm sóc thường xuyên, thái độ của các nhân viên rất hòa nhã thân thiện. Câu lạc bộ ở tầng dưới, đi thang máy rất nhanh, phục mọi nhu cầu sinh hoạt của khách. BS, nhân viên của BV và BN cùng ăn uống chung trong một CLB không phân biệt, nên thực phẩm có thể được bảo đảm an toàn. BV ngày nay đã khá rộng lớn, nhìn bề ngoài cũng đã thấy “bề thế” lắm, khiến các bạn tôi đều rất ngạc nhiên. Tai sao một BV lớn, tốt và rẻ như thế mà hầu như rất ít người Sài Gòn biết đến.

Tôi tường trình với bạn đọc những điều này mà không hề sợ bị hiểu lầm là quảng cáo không công hay có công cho BV, bởi đã được tất cả các các bạn tôi chứng kiến tận mắt. Và cho đến bây giờ BV cũng chỉ biết tên thật của tôi là một bệnh nhân chứ không hề biết đến bút hiệu VQ là ai và tôi cũng chẳng bao giờ mang cái bút hiệu ra với BV.
Tuy BV tốt như vậy, nhưng tất nhiên không thể tránh hết mọi sai sót như ông đẹp trai làm việc ở phòng cấp cứu. Không thể tránh khỏi vài hạt cát sạn trong môt ngôi nhà dù là hoàng cung. Tôi tin là BV sẽ sửa chữa được những sai sót đáng tiếc này.

Một chuyện phẫn nộ trong Bệnh viện

Thưa bạn đọc, có một chuyện tôi không thể không lên tiếng khi nằm trong BV. Hôm đó là 8 g sáng ngày 3-5, người nhà tôi đưa tôi đi trong hành lang, qua phòng 306 thấy một cảnh lộn xộn, liền dừng lại nhìn. Phòng mở rộng cửa, chúng tôi nhìn thấy một bệnh nhân tại phòng này, ông ta trẻ, cao to, mặc quần jean áo pull. Hỏi ra mới biết ông ấy vừa mất chiếc điện thoại Nokia để trên mặt bàn ngủ đầu giường. Ông ta đang hùng hồn phân trần: “Rõ ràng tôi để chiếc điện thoại ở đây và theo dõi bà lao công vào dọn dẹp phòng. Tôi để ý xem bà ta có gian ý không. Bà lao công dọn phòng, thu xếp drap và chăn gối của tôi xong là tôi mất cái ĐT rồi. Chỉ có bà ta ăn cắp thôi”.

Mấy cô y tá xúm lại, yêu cầu bà lao công tên Chanh, rũ hết những tấm drap trong bọc ra. Những chiếc drap, gối dính đầy máu được gỡ tung từng chiếc trước mặt mọi người. Bà lao công đã có tuổi, gầy gò run rẩy, rũ tung từng món trong bọc đến lần thứ hai, vừa lắp bắp thanh minh rằng “nhà cháu không lấy, thưa ông cháu không biết…”. Nhưng ông khách vẫn quả quyết là bà đã lấy cắp chiếc điện thoại, chưa mang đi đâu được, chắc giấu quanh đâu đây thôi. Cô y tá là điều dưỡng viên, tôi đọc được bảng tên là Nguyễn Thị Hồng Thắm liền có sáng kiến, đưa chiếc điện thoại của cô cho ông khách để ông gọi vào số máy của ông, nếu chiếv Đ T của ông còn ở gần đây nó sẽ reo là tìm ra thủ phạm. Ông khách vênh váo cầm ĐT nhấn số máy của mình. Các bạn cũng biết là khi kẻ ăn cắp ĐT chuyên môn thường tắt máy, quăng cái sim cũ đi ngay để khỏi bị lộ. ĐT sẽ chỉ ò í e, chuông không reo.

Nhưng vài giây sau, chuông reo, ông khách “a lô” hỏi ai đó và mặt ông ta bỗng ngẩn ra. Ông buông máy và chỉ hậm hực trả lời cụt lủn “Cháu tôi giữ điện thoại”.

Ngay sau đó, ông ta đưa trả điện thoại cho cô Thắm, không một lời cảm ơn và không hề xin lỗi bà lao công tên Chanh còn đứng ngẩn ngơ lo sợ, chưa kịp biết rằng mình bị oan. Ông Khách vẫn cái vẻ “hùng hổ kiêu căng”, mau chóng đi ra khỏi phòng trước sự ngạc nhiên, phẫn nộ của các cô y tá và chúng tôi.

Nền giáo dục nào đã dạy ông khách như thế?

Nhìn cái dáng đi hùng dũng của ông khách rồi nhìn cái vẻ khắc khổ của bà lao công tên Chanh lầm lũi ôm cái bọc đi về phía cuối hành lang, tôi thấy uất nghẹn, căm phẫn lạ lùng. Nếu có sức khỏe như các ông Hoan Pilot hay Hùng Sùi, chắc tôi sẽ phải túm cổ ông khách kia lại, ít nhất bắt ông ta phải có một lời xin lỗi bà Chanh. Hoặc không giữ được bình tĩnh chắc phải cho ông ta ăn vài qủa đấm. Nhưng về phía BV, các cô y tá chỉ buồn tủi nói với nhau “bỏ qua chuyện này đi” vì BV cũng rất khó xử. Các cô nói với tôi rằng BV thường gặp những chuyện tương tự như thế, nhưng chẳng có cách nào khác.

Hãy đặt một giả thuyết rất có thể xảy ra là nếu như người cháu của ông khách đã ăn cắp chiếc ĐT kia mà không phải là cầm giùm thì chuông sẽ không reo. Như thế là cái tội ăn cắp sẽ đổ hết lên đầu bà Chanh căn cứ vào những lời vu khống buộc tội quả quyết, rất đáng tin của vị khách. Bà lao công sẽ bị đuổi việc và suốt đời mang tiếng ăn cắp.
Lương tâm ông khách kia sẽ ra sao? Tại sao ông ta lại có thể bịa đặt ra những lời lẽ rất chắc chắn “như đinh đóng cột” là đã theo dõi bà lao công ngay từ khi vào phòng?

Nền giáo dục nào đã dạy cho ông ta cách vu khống trắng trợn, độc ác không một chút ngượng miệng như thế? Hay đó phải được coi là một sự “vô giáo dục”? Cả đến một lời cảm ơn người cho mượn ĐT và lời xin lỗi bà già lao công cũng không. Ông ta còn là người được không”?

Thưa bạn đọc, chắc bạn đọc cũng mang chung một ý nghĩ như tôi. Tại sao xã hội này lại sản sinh con người vô liêm sỉ đến như thế. Không chỉ BV mới có những chuyện đáng buồn mà ngay cả những vị khách của BV cũng có những điều cần xem lại mình.

Trở lại chuyện chung về các BV ở VN, phải nói thẳng người ta “chửi bới”, chê bai kết án nhiều lắm rồi. Nhưng đâu đó vẫn còn những nơi chốn tốt và những vị “lương y như từ mẫu” rất đáng kính trọng.

Đến đây tôi xin cảm ơn nhiều bạn đọc và bạn bè biết tin tôi phải mổ ở BV đã thăm hỏi, an ủi nhiệt tình. Tôi đang trong thời kỳ dưỡng bệnh chưa bình phục hẳn. Nhưng có điều may mắn là sau khi xét nghiệm cục bướu, cho kết quả là khối u lành, không phải ung thư và xét nghiệm 4 ống máu cũng không tìm ra bệnh nào. Hy vọng tôi sẽ tiếp tục gặp lại bạn đọc trong những tuần sau.

Văn Quang
11-5-2012
Post Reply